Kinh Luận Phát Tâm Bồ Đề: thuộc tập T32, kinh số 1659 (Bộ Luận Tập), tổng cộng 2 quyển.
Thiên Thân bồ tát tạo luận
Đời Diêu Tần, ngài tam tạng pháp sư Cưu Ma La Thập dịch
Quảng Minh dịch
Quyển Thượng
Phẩm 1: Khuyến Phát
Kính lạy khắp pháp giới
Khứ lai hiện tại Phật
Đấng đại bi cứu thế
Đẳng không¹, bất động trí².
Có một pháp gọi là Đại phương đẳng³, tối thượng diệu4, thuộc Ma đắc lặc già tạng5, là chỗ tu hành của bồ tát. Pháp đó có năng lực (một) khuyến khích các vị bồ tát vui thích tu tập Vô thượng bồ đề; (hai) có thể làm cho chúng sanh phát tâm rộng sâu; (ba) kiến lập thệ nguyện đều vì trang nghiêm bồ đề6; (bốn) bằng cách xả thân mạng tài bảo để nhiếp phục tham lận; (năm) tu tập ngũ tụ giới7 để dẫn dạy chúng sanh không phạm cấm hạnh; (sáu) hành tất cánh nhẫn8 để điều phục sân si; (bảy) phát khởi tinh tấn một cách mạnh mẽ để an chỉ chúng sanh; (tám) thực tập các thiền định để biết các loại tâm tánh; (chín) tu hành trí tuệ để diệt trừ vô minh; (mười) ngộ nhập như thật pháp môn để rời xa các chấp trước; (mười một) nói bày các pháp rất sâu là không, vô tướng; (mười hai) xưng tán công đức để Phật chủng không đoạn dứt. Có vô lượng phương tiện như vậy làm pháp môn thanh tịnh trợ giúp đạo bồ đề. Đây chính là những pháp thượng thượng thiện mà tôi muốn phân biệt, chỉ bày rõ ràng cho hết thảy chúng sanh đạt đến cứu cánh là quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Các người con Phật, nếu là đệ tử Phật, thọ trì lời Phật dạy, thường vì chúng sanh diễn nói giáo pháp, thì trước nên xưng dương công đức của Phật, chúng sanh nghe rồi mới có thể phát tâm cầu trí tuệ Phật. Do phát tâm như vậy nên Phật chủng không đoạn dứt. Hàng tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di thường niệm Phật, niệm pháp, và lại còn niệm công hạnh của đức Như lai: Lúc hành đạo bồ tát, vì cầu pháp mà đức bồ tát phải trải qua a tăng kỳ kiếp thọ các cần khổ. Với tâm niệm cầu pháp như vậy, đức bồ tát được nghe thuyết pháp, dù chỉ là một bài kệ. Đức bồ tát được nghe giáo pháp qua sự chỉ dạy lợi mừng9, thì đã gieo trồng thiện căn, tu tập Phật pháp, chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, vì đoạn trừ các khổ não của vô lượng chúng sanh trong đường sanh tử vô thỉ. Hàng đại bồ tát muốn thành tựu vô lượng thân tâm thì phải cần tu tinh tấn, phát đại nguyện sâu, hành đại phương tiện, khởi đại từ bi, cầu đại trí tuệ vô kiến đảnh tướng10. Cầu các pháp lớn của chư Phật như vậy rồi, lại phải biết pháp đó vô lượng vô biên. Do pháp vô lượng nên phước đức quả báo cũng lại vô lượng. Đức Như lai dạy rằng: “Nếu các bồ tát lúc ban đầu phát tâm cho dù một niệm hạ liệt, thì phước đức quả báo của họ trăm ngàn vạn kiếp nói không thể hết. Huống lại, một ngày, một tháng, một năm cho đến trăm năm, tập quen nhiều niệm, thì phước đức quả báo đâu thể nói hết. Vì sao vậy? Vì việc làm của bồ tát là không cùng tận, vì muốn cho tất cả chúng sanh đều trụ Vô sanh pháp nhẫn11, được quả Vô thượng chánh đẳng giác”.
Các người con Phật, Bồ tát sơ phát bồ đề tâm, thí như biển lớn lúc bắt đầu khởi sự khô cạn, phải biết sự khô cạn đi theo thời gian, từ bậc hạ, trung, thượng cho đến không còn cấp bậc, thì chỗ chứa bảo châu như ý hiện bày. Bảo châu đây đều từ biển lớn sanh ra. Bồ tát phát tâm cũng lại như vậy, từ lúc sơ phát tâm rồi dần dần phát huy, phải biết bồ đề tâm tăng trưởng từ người, trời, thanh văn, duyên giác, bồ tát, Phật đà. Bồ đề tâm là chỗ phát sanh tất cả thiện pháp, thiền định, trí tuệ12.
Lại nữa, như tam thiên đại thiên thế giới từ lúc sơ tạo, đến khi hình thành, thứ tự có 25 hữu13. Tất cả chúng sanh trong các hữu đó thảy đều gánh vác (nhân quả), làm chỗ nương tựa nhau. Bồ tát phát bồ đề tâm cũng lại như vậy, từ lúc sơ phát tâm rồi dần dần phát huy (trong các hữu), khắp vì tất cả vô lượng chúng sanh, bao gồm lục thú, tứ sanh, chánh kiến, tà kiến, tu thiện, tập ác, hộ trì tịnh giới, phạm tứ trọng tội, tôn phụng tam bảo, chê bai chánh pháp, chư ma, ngoại đạo, sa môn, phạm chí, sát lợi, bà la môn, phệ xá, thủ đà la, mà vì gánh vác tất cả, làm chỗ nương tựa cho chúng sanh.
Lại nữa, bồ tát phát tâm, lấy từ bi làm đầu. Tâm đại từ của bồ tát thì vô lượng, vô biên, cho nên sự phát tâm cũng không có giới hạn, trùm khắp chúng sanh giới. Thí như hư không trùm khắp tất cả (không chỗ nào không có), bồ tát phát tâm cũng lại như vậy, vì tất cả chúng sanh mà phát tâm nên không chỗ nào không có (sự phát tâm của bồ tát). Cũng như chúng sanh giới vô lượng, vô biên không có cùng tận; bồ tát phát tâm cũng lại như vậy, vô lượng, vô biên không có cùng tận. Hư không không cùng tận, nên chúng sanh giới không cùng tận. Do bồ tát phát tâm ngang bằng chúng sanh giới14, mà chúng sanh giới không có giới hạn, nên sự phát tâm cũng không có giới hạn15. Nay tôi nương ý chỉ của Phật mà nói bày một chút phần của chúng sanh giới, như sau:
Phương đông có thiên ức hằng hà sa a tăng kỳ thế giới của chư Phật, cho đến phương nam, phương tây, phương bắc, bốn hướng trên dưới, mỗi mỗi có thiên ức hằng hà sa a tăng kỳ thế giới của chư Phật. Hết thảy đem nghiền nát làm vi trần. Các vi trần này cực nhỏ đến nỗi nhục nhãn không nhìn thấy được. Một trăm vạn ức hằng hà sa a tăng kỳ tam thiên đại thiên thế giới, chỗ có bao nhiêu chúng sanh thảy đều tụ tập, chung lấy một trần. Hai trăm vạn ức hằng hà sa a tăng kỳ tam thiên đại thiên thế giới, chỗ có bao nhiêu chúng sanh, chung lấy hai trần. Như vậy, lần lựa lấy mười phương, mỗi phương có thiên ức hằng hà sa a tăng kỳ thế giới của chư Phật, chỗ nào có địa chủng đều nghiền làm vi trần, gom lại hết, thì chúng sanh giới cũng không thể cùng tận.
Thí như có người chia chẻ một sợi lông làm trăm phần, lấy một phần sợi lông, nhúng vào nước biền lớn. Tôi nay nói bày ít phần về chúng sanh giới cũng lại như nước trên một phần sợi lông, những điều chưa nói như nước biển lớn. Giả sử chư Phật trong vô lượng vô biên a tăng kỳ rộng bày thí dụ, nói cũng không hết (về chúng sanh giới). Sự phát tâm của bồ tát có khả năng che khắp hết thảy chúng sanh giới như vậy. Vì sao? Các người con Phật, vì bồ đề tâm đâu thể cùng tận vậy. Nếu có bồ tát nghe lời như trên mà không kinh, không sợ, không thối lui, không quên mất, phải biết người đó quyết định có thể phát bồ đề tâm. Giả sử, vô lượng hết thảy chư Phật trong vô lượng a tăng kỳ kiếp xưng tán công đức của người đó cũng không thể cùng tận. Vì sao? Vì bồ đề tâm không có giới hạn, không có cùng tận, nên có vô lượng lợi ích như thế. Cho nên nay tôi tuyên nói vì muốn cho hết thảy chúng sanh được nghe để phát bồ đề tâm vậy.
Phẩm 2: Phát Tâm
Vì sao bồ tát phát bồ đề tâm, và do nhân duyên gì tu tập bồ đề?
Nếu bồ tát thân cận thiện tri thức16, cúng dường chư Phật17, tu tập thiện căn18, chí cầu chánh pháp19, tâm thường nhu hòa, gặp khổ kham nhẫn, từ bi thuần hậu, thâm tâm bình đẳng20, tin ưa đại thừa21, cầu trí tuệ Phật22. Nếu người nào có đủ 10 pháp như vậy mới có thể phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có 4 duyên cho sự phát tâm tu tập Vô thượng bồ đề. Những gì là 4 duyên? Một là, tư duy về chư Phật mà phát bồ đề tâm; hai là, quán thân quá hoạn mà phát bồ đề tâm; ba là, thương xót chúng sanh mà phát bồ đề tâm, bốn là, cầu quả tối thắng mà phát bồ đề tâm.
I. Tư duy về chư Phật lại có 5 sự:
1. Tư duy mười phương quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, lúc ban đầu phát tâm, các ngài cũng đủ những tánh chất phiền não như ta ngày nay, rốt cùng trọn thành chánh giác, là đấng Vô thượng tôn. Do duyên việc này mà phát bồ đề tâm.
2. Tư duy tất cả ba đời chư Phật do phát đại dũng mãnh nên các ngài chứng được quả Vô thượng bồ đề. Nếu quả vị bồ đề đây là pháp có thể chứng thì ta cũng sẽ chứng được. Do duyên việc này mà phát bồ đề tâm.
3. Tư duy tất cả ba đời chư Phật do phát đại minh tuệ, ở trong vỏ bọc vô minh mà kiến lập thắng tâm, tích tập khổ hạnh, các ngài đều có thể tự cứu, vượt thoát tam giới. Ta cũng như vậy, phải tự cứu tế. Do duyên việc này mà phát bồ đề tâm.
4. Tư duy tất cả ba đời chư Phật, khi ở trong nhân loại đều có hùng tâm, nên các ngài đều vượt qua biển lớn sanh tử phiền não. Ta cũng là bậc trượng phu, cũng vượt qua được. Do duyên việc này mà phát bồ đề tâm.
5. Tư duy tất cả ba đời chư Phật do phát đại tinh tấn, bỏ thân mạng tài bảo, cầu nhất thiết trí. Ta nay cũng phải theo học như chư Phật. Do duyên việc này mà phát bồ đề tâm.
II. Quán thân quá họan mà phát bồ đề tâm, lại có 5 sự:
1. Tự quán thân ngũ ấm, tứ đại của ta đều hay khởi tạo vô lượng ác nghiệp, nên muốn bỏ lìa.
2. Tự quán thân mình có chín lỗ thường chảy đồ hôi dơ chẳng sạch, nên sanh nhàm chán.
3. Tự quán thân mình có vô lượng phiền não tham sân si thiêu đốt thiện tâm, nên muốn trừ diệt.
4. Tự quán thân mình như bong bóng, bọt nước, niệm niệm sanh diệt, là pháp đáng xả, nên muốn buông bỏ.
5. Tự quán thân mình bị vô minh che lấp, thường tạo ác nghiệp, luân hồi sáu nẽo, không có lợi ích.
III. Cầu quả tối thắng mà phát bồ đề tâm, lại có 5 sự:
1. Thấy các đức Như lai có tướng hảo trang nghiêm, quang minh trong suốt, gặp Phật thì trừ được phiền não, nên phát tâm tu tập.
2. Thấy pháp thân thường trú thanh tịnh vô nhiễm của các đức Như lai, nên phát tâm tu tập.
3. Thấy các đức Như lai có giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, giới pháp thanh tịnh, nên phát tâm tu tập.
4. Thấy các đức Như lai có 10 lực23, 4 món vô sở úy24, đại bi tam niệm xứ25, nên phát tâm tu tập.
5. Thấy các đức Như lai có nhất thiết trí, thương xót chúng sanh, lòng từ bi bủa khắp, thường vì tất cả kẻ ngu mê mà làm người dẫn đường chân chánh, nên phát tâm tu tập.
4. Thương xót chúng sanh mà phát bồ đề tâm, lại có 5 sự:
1. Thấy các chúng sanh bị vô minh trói buộc.
2. Thấy các chúng sanh bị các khổ bức bách.
3. Thấy các chúng sanh huân tập nghiệp bất thiện.
4. Thấy các chúng sanh tạo cực trọng ác.
5. Thấy chúng sanh không tu chánh pháp.
Vô minh trói buộc, lại có 4 mục:
a. Thấy các chúng sanh vì si ái làm cho mê lầm, mà thọ lãnh các quả khổ rất dữ dội.
b. Thấy các chúng sanh không tin nhân quả, tạo tác nghiệp ác.
c. Thấy các chúng sanh xả bỏ chánh pháp, tin nhận tà đạo.
d. Thấy các chúng sanh chìm trong sông phiền não, trôi nổi theo bốn dòng26.
Các khổ bức bách, lại có 4 mục:
a. Thấy các chúng sanh sợ sanh lão bịnh tử, nhưng không có tâm mong cầu giải thoát, lại còn tạo nghiệp.
b. Thấy các chúng sanh ưu bi khổ não, nhưng thường gây tạo (nghiệp nhân) không có thôi dứt.
c. Thấy các chúng sanh ái biệt ly khổ, đã không giác ngộ, tham đắm dây dưa.
d. Thấy các chúng sanh oán tắng hội khổ, thường khởi hiềm nghi, ganh ghét, trở lại gây thêm oán thù.
Huân tập nghiệp bất thiện, lại có 4 mục:
a. Thấy các chúng sanh vì lòng ái dục, làm các điều ác.
b. Thấy các chúng sanh biết dục sanh khổ nhưng không bỏ dục.
c. Thấy các chúng sanh muốn cầu an vui nhưng lại không muốn giữ giới đã thọ.
d. Thấy các chúng sanh không ưa khổ quả nhưng tạo khổ nhân không có thôi dứt.
Tạo cực trọng ác, lại có 4 mục:
a.Thấy các chúng sanh hủy phạm trọng giới, lo buồn khiếp sợ, rồi cũng phóng dật.
b. Thấy các chúng sanh khởi tạo cực ác, ngũ vô gián nghiệp, hung dữ ương ngạnh, tự mình che lấp, không lòng hổ thẹn.
c. Thấy các chúng sanh chê bai chánh pháp, đại thừa phương đẳng, chuyên ngu tự chấp, khởi lòng kiêu mạn.
d. Thấy các chúng sanh ôm chặc sự thông minh hiểu biết, nên đủ duyên tố đoạn dứt thiện căn, trở lại cống cao, vĩnh viễn (chấp chặc) không có hối cải.
Không tu chánh pháp, lại có 4 mục:
a. Thấy các chúng sanh sanh nhằm bát nạn27, không nghe chánh pháp, không biết tu thiện.
b. Thấy các chúng sanh gặp Phật ra đời, được nghe chánh pháp nhưng không khả năng thọ trì.
c. Thấy các chúng sanh tập nhiễm ngoại đạo, khổ thân tu nghiệp, trọn chẳng kết quả như lòng mong cầu.
d. Thấy các chúng sanh tu chứng phi tưởng phi phi tưởng định28, cho là niết bàn, khi thiện báo hết, rơi lại tam đồ.
Bồ tát thấy các chúng sanh vô minh tạo nghiệp, đêm dài thọ khổ, xa lìa chánh pháp, quên mất đường ra, vì những việc đó mà phát tâm đại từ bi, chí cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Như việc cứu lửa cháy đầu, tất cả chúng sanh có khổ não, ta phải cứu giúp không sót một ai29. Các người con Phật, nay tôi lược nói hạnh ban đầu của bồ tát cùng nhân duyên phát tâm, nếu nói rộng ra thì vô lượng vô biên.
Phẩm 3: Nguyện Thệ
Bồ tát phát tâm xu hướng bồ đề như thế nào và lấy hạnh nghiệp gì để thành tựu bồ đề?
Bồ tát phát tâm trụ ở bậc Can tuệ địa30, trước phải kiên cố phát khởi chánh nguyện, vì nhiếp thọ tất cả vô lượng chúng sanh, rằng: Tôi cầu đạo Vô thượng bồ đề vì cứu hộ độ thoát chúng sanh không sót một ai, vì muốn chúng sanh đạt đến cứu cánh Vô dư niết bàn. Cho nên bồ tát lúc ban đầu phát tâm phải lấy tâm đại bi làm đầu, vì tâm đại bi mới có thể phát khởi, chuyển vận mười chánh nguyện thù thắng cao cả. Sao gọi là mười?
1.Tôi nguyện đời trước cho đến ngày nay lo tu bồi thiện căn, đem thiện căn này thí cho tất cả vô biên chúng sanh, cùng với chúng sanh hồi hướng Vô thượng bồ đề. Mong nguyện trên của tôi niệm niệm tăng trưởng, sanh ra đời nào cũng thường buộc nguyện này nơi tâm, trọn không quên mất, lấy đó làm đà la ni thủ hộ (tuệ mạng của mình).
2.Tôi nguyện hồi hướng đại bồ đề quả rồi, đem thiện căn này ở trong tất cả cõi chúng sanh (cư trú và có Phật ra đời) thường được cúng dường tất cả chư Phật, nguyện không sanh vào quốc độ không có Phật.
3.Tôi nguyện được sanh vào quốc độ có Phật rồi, thường được thân cận, theo hầu hai bên Phật như bóng theo hình, không một khoảng sát na nào rời xa Phật.
4.Tôi nguyện được thân cận Phật rồi, theo chỗ cảm cầu của tôi, (đức Phật) vì tôi mà thuyết pháp, liền được thành tựu bồ tát ngũ thông31.
5.Tôi nguyện được thành tựu bồ tát ngũ thông rồi, liền thông đạt thế đế 32, là pháp tướng giả danh33 cùng khắp, thông đạt đệ nhất nghĩa đế34, là pháp tánh chân thật như thế35, được chánh pháp trí36.
6.Tôi nguyện được chánh pháp trí rồi, không một niệm quên lãng, vì chúng sanh thuyết pháp bằng sự chỉ dạy lợi mừng, đều khiến cho họ được thông hiểu (Phật pháp)37.
7.Tôi nguyện có khả năng làm cho chúng sanh thông hiểu rồi, nương thần lực của Phật, biến khắp đến mười phương thế giới, không bỏ sót thế giới nào, để cúng dường chư Phật, nghe nhận chánh pháp, rộng nhiếp chúng sanh.
8.Tôi nguyện đối trước chư Phật nghe nhận chánh pháp rồi, liền có khả năng tùy chuyển pháp luân thanh tịnh. Mười phương thế giới tất cả chúng sanh nghe tôi thuyết pháp, nghe danh hiệu tôi, liền được xả ly tất cả phiền não, phát bồ đề tâm.
9.Tôi nguyện giúp cho tất cả chúng sanh phát bồ đề tâm rồi, thường tùy thủ hộ lẫn nhau để diệt trừ những điều vô lợi ích, đem đến vô lượng điều an vui, xả thân mạng tài bảo, nhiếp thọ chúng sanh, cùng nhau gánh vác chánh pháp.
10.Tôi nguyện thường gánh vác chánh pháp rồi, dù thực hành chánh pháp mà tâm vô sở hành38. Như chư bồ tát thực hành chánh pháp mà tâm vô sở hành, nhưng không việc gì không hành (vô sở bất hành39), vì giáo hóa chúng sanh mà không bỏ chánh nguyện.
Đây là mười đại chánh nguyện của bồ tát phát tâm. Mười đại chánh nguyện này biến khắp chúng sanh giới, nhiếp thọ tất cả hằng sa các nguyện của chúng sanh. Nếu chúng sanh giới hết, nguyện tôi mới hết. Nhưng chúng sanh giới thật không thể cùng tận, nên đại nguyện này của tôi cũng không cùng tận.
Lại nữa, bố thí là chánh nhân bồ đề, vì nhiếp thủ tất cả chúng sanh. Trì giới là chánh nhân bồ đề, vì đầy đủ thiện căn, đầy đủ bản nguyện. Nhẫn nhục là chánh nhân bồ đề, vì thành tựu được 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình. Tinh tấn là chánh nhân bồ đề, làm tăng trưởng thiện hạnh, vì chúng sanh mà siêng năng giáo hóa. Thiền định là chánh nhân bồ đề, vì bồ tát khéo tự điều phục và có khả năng biết các tâm hành của chúng sanh. Trí tuệ là chánh nhân bồ đề, vì đầy đủ khả năng biết rõ tánh tướng của các pháp.40
Tóm yếu mà nói, sáu ba la mật là chánh nhân bồ đề. Bốn tâm vô lượng, 37 phẩm trợ đạo pháp, muôn hạnh lành cùng hỗ tương, trợ nhiếp để thành tựu bồ đề. Nếu bồ tát tu tập sáu ba la mật, tùy theo công hạnh mà từ từ tiếp cận quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Các người con Phật, người cầu bồ đề thì không được phóng dật41, vì (ba nghiệp) phóng dật sẽ làm hư hoại thiện căn. Nếu bồ tát chế phục sáu căn không cho phóng dật42 thì người đó tu tập được sáu ba la mật. Bồ tát phát tâm, trước phải chí thành kiến lập thệ nguyện một cách chắc chắn. Người lập thệ nguyện thì trọn không phóng dật, giải đãi, khinh dễ thối lui. Vì sao?
Muốn lập nguyện chắc chắn cần phải có 5 điều kiện gìn giữ:
1.Luôn giữ tâm vững chải.
2.Luôn điều phục phiền não.
3.Luôn ngăn ngừa phóng dật.
4.Luôn phá trừ ngũ cái43.
5.Luôn chuyên cần tu tập, hành sáu ba la mật.
Như chư Phật khen ngợi:
Như lai đại trí tôn,
Nói ra công đức chứng
Nhẫn tuệ, sức phước nghiệp
Thệ nguyện là tối thắng.
Làm sao lập thệ? Nếu có người đến cầu xin các thứ nơi ta, ta đối với họ tùy lúc mà bố thí, cho đến không sanh một niệm bỏn sẻn, tiếc nuối. Nếu sanh ác tâm bằng khoảng khảy móng tay dùng sự bố thí làm nhân duyên cầu tịnh báo, thì luận chủ tôi rất chê trách. Mười phương thế giới vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp hiện tại, vị lai chư Phật cũng nói người đó quyết định không thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nếu tôi tu trì giới, dù mất thân mạng vẫn kiến lập tịnh tâm, thệ không thay đổi, hối hận. Nếu tôi tu nhẫn nhục, bị người xâm hại cho đến bị cắt chặt thân thể cũng vẫn giữ lòng từ ái, thệ không giận ngăn.
Nếu tôi tu tinh tấn, gặp cảnh lạnh nóng bất chợt, gặp nạn vua quan, giặc giã, nạn nước lửa, gặp sư tử cọp sói, gặp chỗ không có nước uống, không có cơm ăn, nhất định tâm phải kiên cường, thệ không thối lui, quên mất (bồ đề tâm).
Nếu tôi tu thiền định, bị ngoại cảnh khuấy rối không thể nhiếp tâm, phải buộc niệm quên cảnh, thệ không khởi loạn tưởng phi pháp dẫu trong chốc lát. Nếu tôi tu tập trí tuệ, quán tất cả pháp như thật tánh mà tùy thuận thọ trì, không khởi nhị kiến đối với điều thiện, bất thiện, hữu vi, vô vi, sanh tử, niết bàn.
Nếu tôi phát thệ nguyện mà tâm có hối hận, giận ngăn, thối lui, loạn tưởng, nhị kiến thì dù chỉ trong khoảng khảy móng tay tu tập trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ để cầu tịnh báo, thì luận chủ tôi rất chê trách. Mười phương thế giới vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp hiện tại, vị lai chư Phật cũng nói người ấy quyết định không thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nếu bồ tát lấy mười đại nguyện làm hạnh hộ trì chánh pháp, lấy sáu đại thệ làm tâm ngăn trừ phóng dật thì nhất định có thể tinh cần tu tập sáu ba la mật, thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phẩm 4: Đàn na ba la mật
Bồ tát tu hạnh bố thí như thế nào? Bồ tát bố thí vì tự lợi, lợi tha, cả hai đều lợi. Bố thí như vậy thì có thể trang nghiệm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh khiến rời khổ não mà thực hành bố thí. Người tu hạnh bố thí thì đối với tài vật của mình thường sanh lòng xả. Chúng sanh đến cầu xin thì khởi lòng tôn trọng, tưởng như cha mẹ, sư trưởng, thiện tri thức. Với người nghèo cùng hạ tiện thì khởi lòng thương xót, tưởng như đứa con ruột của mình. Bồ tát tùy theo nhu cầu của họ mà sanh lòng hoan hỷ, cung kính giúp đỡ họ. Đây gọi là bồ tát ban đầu phát tâm tu tập bố thí.
Do tu tập bố thí nên thiện danh được lưu bố và sanh ra nơi nào thì cũng có tài bảo dư dật, đây gọi là tự lợi. Bồ tát có thể giúp cho chúng sanh sinh tâm thỏa mãn rồi giáo hóa điều phục chúng sanh khiến không có lòng keo bẩn, đây gọi là lợi tha. Do bồ tát đã tu vô tướng đại thí44, giáo hóa chúng sanh khiến cùng lợi ích như mình, đây gọi là cả hai đều lợi. Do tu bố thí mà đạt được địa vị Chuyển luân thánh vương, nhiếp thọ được tất cả chúng sanh vô lượng, cho đến thành tựu pháp tạng vô tận của chư Phật, đây gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Bố thí có ba phần: một là pháp thí, hai là vô uý thí, ba là tài vật thí.
Bồ tát dùng pháp thí thì trước phải khuyên người thọ giới, tu tâm xuất gia, phá các tà kiến bằng cách nói ra những điều sai lầm, khổ đau của sự chấp thường, chấp đoạn trong phạm trù bốn điên đảo45, lại phân biệt khai thị nghĩa chân đế46, khen ngợi công đức của sự tinh tấn, nói tội lỗi ghê gớm của sự phóng dật. Đây gọi là pháp thí.
Nếu có chúng sanh sợ hãi nạn vua, sư tử, cọp, sói, nước lửa, trộm cắp … bồ tát thấy rồi, có thể vì họ cứu giúp thì gọi là vô uý thí.
Bồ tát không có lòng bỏn xẻn đối với tài vật thí, trên từ trân bảo, voi, ngựa, xe cộ, tơ lụa, lúa nếp, áo quần, ăn uống, dưới đến một nắm gạo, một tấc vải, dù ít, dù nhiều, cho theo nhu cầu, vừa ý người cầu xin, đây gọi là tài thí.47
Tài thí có 5 yếu tố:
1.Chí tâm cho.
2.Tin tâm cho.
3.Tùy lúc cho.
4.Tự tay cho.
5.Như pháp cho48.
Có 5 việc không nên bố thí:
1. Tài vật phi lý không đem cho người vì là vật bất tịnh.
2. Rượu và thuốc độc không đem cho người vì làm thác loạn chúng sanh.
3. Lưới, bẫy, ná, rập không đem cho người vì làm khổ não chúng sanh.
4. Dao, gậy, cung tên không đem cho người vì làm thương hại chúng sanh.
5. Âm nhạc, nữ sắc không đem cho người vì phá hoại tịnh tâm của người.
Tóm yếu mà nói, vật không như pháp, làm não loạn chúng sanh không đem cho người. Ngoài ra, tất cả vật khác có thể giúp chúng sanh được an lạc, gọi là bố thí đúng như chánh pháp.
Người vui thích bố thí lại được thành tựu 5 việc mang lại tiếng tăm và lợi ích:
1.Thường được thân cận tất cả hiền thánh.
2.Tất cả chúng sanh ai cũng vui gặp.
3.Khi vào trong đại chúng, ai cũng tôn kính.
4.Danh tốt, tiếng lành được vang khắp mười phương.
5.Làm nhân duyên thượng diệu cho Vô thượng bồ đề.
Bồ tát bố thí như vậy gọi là có nhất thiết thí.
Nhất thiết thí là gì? Không phải đem nhiều tiền của cho người, mà là đem cả tấm lòng vậy. Người bố thí là người cầu tài đúng như pháp để bố thí, gọi là nhất thiết thí. Đem tâm thanh tịnh không siểm khúc49 mà bố thí, gọi là nhất thiết thí. Thấy kẻ nghèo cùng sanh lòng thương xót bố thí gọi là nhất thiết thí. Thấy người nguy khốn sanh lòng từ bi bố thí gọi là nhất thiết thí. Ở trong hoàn cảnh nghèo cùng ít của mà có thể làm việc bố thí gọi là nhất thiết thí. Đem bảo vật quí trọng bố thí để khai mở tâm ý của người gọi là nhất thiết thí. Bố thí mà không phân biệt người trì giới hay hủy giới, bậc phước điền hay phi phước điền, gọi là nhất thiết thí. Bố thí mà không cầu quả nhân thiên và các quả diệu thiện lạc khác, gọi là nhất thiết thí. Chí cầu Vô thượng đại bồ đề mà bố thí, gọi là nhất thiết thí. Phát tâm bố thí, trong lúc bố thí lòng hoan hỷ, sau khi bố thí không hối tiếc, gọi là nhất thiết thí.
Nếu dùng bông hoa bố thí thì đầy đủ hoa trái đà la ni, thất giác chi50. Nếu dùng hương thơm bố thí thì đầy đủ giới định tuệ xông ướp nơi thân. Nếu dùng trái quả bố thí thì thành tựu đầy đủ quả vô lậu.
Nếu dùng thức ăn bố thí thì trọn vẹn sự sống lâu, biện tài, sắc đẹp, sức lực, an vui.
Nếu dùng y phục bố thí thì đầy đủ sắc thân thanh tịnh, trừ bỏ sự không biết hổ thẹn.
Nếu dùng đèn sáng bố thí thì đầy đủ Phật nhãn, thấu suốt đặc tánh của vạn pháp.
Nếu dùng voi, ngựa, xe cộ bố thí thì được quả vô thượng thừa, đầy đủ thần thông.
Nếu dùng chuỗi anh lạc bố thí thì đầy đủ 80 món đẹp tùy hình. Nếu dùng trân bảo bố thí thì đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại nhân.
Nếu dùng gân sức51 để làm việc hầu hạ, chịu sự sai bảo như là bố thí, thì thành tựu được 10 lực, 4 vô sở uý của Phật.
Tóm yếu mà nói, bố thí cho đến quốc thành thê tử, đầu mắt tay chân, toàn bộ thân mạng với tâm không hối tiếc, vì chứng Vô thượng bồ đề, hóa độ chúng sanh. Bồ tát ma ha tát tu hành bố thí thì chẳng thấy tài vật, kẻ cho, người nhận. Bởi vì bố thí bằng vô tướng như vậy nên gọi là đầy đủ đàn na ba la mật.
Phẩm 5: Thi la ba la mật
Hàng bồ tát tu hạnh trì giới như thế nào? Hàng bồ tát trì giới vì lợi mình, lợi người và cả hai đều lợi ích. Trì giới như vậy thì có thể trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh xa lìa khổ não cho nên trì giới. Người tu trì giới thì phải thanh tịnh ba nghiệp thân, miệng, ý; đối với tất cả bất thiện hạnh có thể xả ly; khéo léo quở trách (mầm mống) ác hạnh và (duyên tố) hủy hoại giới cấm; đối với những lỗi nhỏ thì lòng luôn lo sợ. Như vậy mới đúng nghĩa là hàng bồ tát sơ phát tâm tu trì giới vậy.
Do tu trì giới mà xa lìa được tất cả điều ác, các lầm lỗi, thường sanh về chỗ an vui, gọi là tự lợi.
Hàng bồ tát giáo hóa chúng sanh khiến cho họ không phạm điều ác, gọi là lợi tha.
Đem tất cả sự tu trì giới của mình hướng về bồ đề giới52 và giáo hóa tất cả chúng sanh khiến cho họ đồng được lợi ích như mình, gọi là cả hai đều lợi ích.
Chánh nhân tu trì giới thì họach đắc sự ly dục53 cho đến dứt sạch hết lậu nghiệp54, thành tựu tối chánh giác, gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Giới có 3 loại: 1. Thân giới, 2. Khẩu giới, 3. Tâm giới.
1. Trì thân giới thì phải lìa hẳn tất cả hành động thuộc về sát sanh, trộm cướp và dâm dục. Nghĩa là không được tước đi sự sống của sinh vật cùng mạng sống của người, không chiếm hữu tài sản của người và không xâm phạm ngoại sắc (thân thể) của người. Lại cũng không vì những nhân duyên gì và bằng phương tiện gì giết hại chúng sanh; chẳng dùng gậy cây, ngói đá v.v… làm thương hại chúng sanh. Nếu vật thuộc người khác có quyền thọ dụng, thì dù là một cọng cỏ, một chiếc lá, người ta không cho thì không được lấy.
Lại cũng không nên ngắm, liếc, ngó tế sắc (sắc đẹp quyến rũ). Đối với bốn oai nghi phải nghiêm cung, cẩn thận, xét đoán rõ ràng. Đó gọi là thân giới.
2. Trì khẩu giới thì phải đoạn trừ tất cả vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu và ỷ ngữ. Thường không dùng lời dối trá, lời ly gián hòa hợp, lời phỉ báng, chê bai, lời trau chuốt hoa mỹ, và không tạo mọi phương tiện để xúc não lòng người. Lời nói phải chí thành, hòa nhã và trung tín. Lời nói thường đem đến cho người lợi ích, khuyến hóa người tu thiện. Đó gọi là khẩu giới.
3. Trì tâm giới thì phải trừ diệt tham dục, sân hận, tà kiến, thường tu tâm nhu hòa, không tạo những tội lỗi, tin rằng tất cả những nghiệp tội (từ thân, khẩu, ý sanh ra) chắc chắn sẽ cho chúng ta quả báo ác. Do sức tư duy tu mà không tạo các điều ác, đối với tội nhẹ trong lòng phải lo tưởng như tội rất nặng. Giả như lỡ gây lầm lỗi thì phải sợ sệt, lo âu, sám hối. Đối với tất cả chúng sanh không bao giờ khởi lòng giận hờn, bực bội. Nhìn chúng sanh bằng cái tâm thương nhớ55. Có cái tâm tri ân, báo ân, cái tâm không nuối tiếc, bỏn sẻn, vui làm phước đức, thường vì độ hóa mọi người, thường tu tâm từ, thương xót tất cả. Đó gọi là tâm giới.
Trên đây là nói mười thiện nghiệp giới. Mười thiện nghiệp giới có 5 điều lợi ích:
1.Chế ngự ác hạnh.
2.Sanh khởi thiện tâm.
3.Ngăn ngừa phiền não.
4.Thành tựu tịnh tâm.
5.Tăng trưởng giới đức.
Nếu người nào khéo tu hạnh không phóng dật, đầy đủ chánh niệm56, phân biệt thiện ác, phải biết người này quyết định có khả năng tu mười thiện nghiệp giới. Tám vạn bốn ngàn oai nghi, vô lượng giới phẩm thảy đều nhiếp trong mười thiện giới. Mười thiện giới này chính là căn bản của tất cả thiện giới.
Đoạn trừ ba nghiệp ác của thân, khẩu, ý thì có thể chế ngự tất cả pháp bất thiện, cho nên gọi là giới. Giới có 5 nghĩa:
1. Ba la đề mộc xoa giới.
2. Định cộng giới.
3. Vô lậu giới.
4. Nhiếp căn giới.
5. Vô tác giới.
Sau khi bạch tứ yết ma57, từ giới sư mà lãnh thọ giới pháp gọi là Ba la đề mộc xoa giới58. Căn bản định59 của tứ thiền, cận phần định của tứ thiền60 gọi là định cộng giới61. Căn bản định của tứ thiền, vị đáo căn bản định của sơ thiền62 gọi là vô lậu giới63. Thu nhiếp các căn, tu chánh niệm tâm, dù kiến văn giác tri64 đối với sắc thanh hương vị xúc, nhưng không sanh phóng dật, gọi là nhiếp căn giới65. Xả bỏ thân mạng, sanh vào đời sau cũng không làm ác, gọi là vô tác giới66.
Hàng bồ tát tu trì giới thì không chung pháp hạnh với hàng thanh văn, bích chi Phật, cho nên gọi là thiện trì giới (khéo léo trì giới). Thiện trì giới thì tất nhiên có những lợi ích cho tất cả chúng sanh, như sau:
Trì từ tâm giới là cứu hộ chúng sanh khiến được an vui.
Trì bi tâm giới là nhẫn thọ các khổ, cứu nguy nan cho chúng sanh.
Trì hỷ tâm giới là khuyến hóa chúng sanh vui tu thiện pháp, không có giải đãi. Trì xả tâm giới là bình đẳng đối với oán thân, lìa lòng yêu ghét.
Trì huệ thí giới là giáo hóa điều phục chúng sanh.
Trì nhẫn nhục giới là tâm thường nhu nhuyến, không sân hận, si mê. Trì tinh tấn giới thì thiện nghiệp ngày càng tăng trưởng, không thối lui. Trì thiền định giới là ly dục bất thiện, tăng trưởng thiền chi67.
Trì trí tuệ giới là (học rộng) nghe nhiều để tăng trưởng thiện căn68, không biết chán đủ.
Trì thân cận thiện tri thức giới là trợ giúp nhau thành tựu đạo Vô thượng bồ đề. Trì viễn ly ác tri thức giới là dứt lìa ba đường ác và tám chỗ nạn.
Người theo hạnh bồ tát tu trì tịnh giới thì không nương Dục giới, không gần Sắc giới, không trụ Vô sắc giới, gọi là thanh tịnh giới.
Xả ly dục trần, trừ sân hận si mê, diệt vô minh chướng, gọi là thanh tịnh giới. Dứt bỏ đoạn kiến, thường kiến, không nghịch với lý nhân duyên, gọi là thanh tịnh giới.
Không đắm trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức, toàn là tướng giả danh, gọi là thanh tịnh giới.
Không ràng buộc nơi nhân, không khởi các kiếp chấp (phân biệt), không trụ nghi hối, gọi là thanh tịnh giới.
Không trụ tham, sân, si: ba món bất thiện căn, gọi là thanh tịnh giới.
Không trụ ngã mạn69, kiêu mạn70, tăng thượng mạn71, mạn mạn72, đại mạn73, nhu hòa khéo tùy thuận (chúng sanh), gọi là thanh tịnh giới.
Đối với thịnh suy, được mất, chê khen, khổ vui thảy đều không dao động, gọi là thanh tịnh giới.
Không nhiễm thế đế vốn hư vọng giả danh, tùy thuận chân đế, gọi là thanh tịnh giới.
Chẳng còn phiền não, nóng nảy, tâm thường tịch diệt ly tướng, gọi là thanh tịnh giới.
Nói tóm lại, bồ tát tu trì giới thì không tiếc thân mạng, quán chiếu vô thường, sanh lòng nhàm lìa, cần hành thiện căn, dũng mãnh tinh tấn, gọi là thanh tịnh giới. Hàng bồ tát ma ha tát tu hành trì giới thì không thấy tâm mình thanh tịnh, do vì ly tướng. Đây gọi là đầy đủ Thi la ba la mật.
Phẩm 6: Sằn đề ba la mật
Hàng bồ tát tu hành nhẫn nhục như thế nào? Hàng bồ tát tu hành nhẫn nhục là vì lợi mình, lợi người và cả hai đều lợi ích. Sự nhẫn nhục như vậy có khả năng trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh khiến lìa khổ não mà tu nhẫn nhục. Người tu hạnh nhẫn nhục thì tâm thường khiêm hạ, đối với tất cả chúng sanh cang cường, kiêu mạn thì tha thứ mà không chấp trách, thấy kẻ nguy ác thì luôn khởi lòng thương xót. Lời nói thường nhu nhuyến, khuyến hóa người tu thiện, phân biệt giải nói về quả báo sai khác của sự sân hận và sự hòa nhẫn. Đây gọi là hàng bồ tát sơ phát tâm tu hạnh nhẫn nhục.
Do tu nhẫn nhục mà xa lìa các điều ác, thân tâm an lạc, gọi là tự lợi. Hướng dẫn chúng sanh biết sống hòa thuận với nhau, gọi là lợi tha. Tu tập (nhẫn nhục) hằng ngày đưa đến thành tựu vô thượng nhẫn nhục, giáo hóa chúng sanh đồng được lợi ích như mình, gọi là cả hai đều lợi ích.
Chánh nhân tu nhẫn nhục thì thành tựu được (quả báo thân tâm) đoan chánh, người thấy sanh lòng cung kính, cho đến khi thành Phật có tướng hảo thượng diệu, gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Nhẫn nhục có 3 hình thái: 1. Thân nhẫn, 2. Khẩu nhẫn, 3. Ý nhẫn.
1. Thế nào là thân nhẫn? Nếu có người sanh lòng ác đến bức bách, hủy nhục, đánh đập thậm chí làm thương hại ta mà vẫn có thể nhẫn chịu tất cả. Thấy các chúng sanh bị ức hiếp, sợ hãi thì sẵn sàng lấy thân chịu thay (khổ não) cho họ74 mà tâm không mỏi mệt, trì hoãn. Đây gọi là thân nhẫn.
2. Thế nào là khẩu nhẫn? Nếu có người đến mắng chửi ta thì nín lặng nhẫn chịu, không lòng chống trả. Nếu có người phi lý đến trách mắng, ta cần dùng lời ôn hòa mà thuận theo. Nếu có người vu khống ngang ngược, hủy báng thậm tệ, ta đều phải nhẫn chịu. Đây gọi là khẩu nhẫn.
3.Thế nào là ý nhẫn? Nếu có người sân si với ta, không ôm lòng hờn giận. Nếu có người xúc não ta, tâm vẫn không dao động. Nếu có người công kích, hủy nhục ta, lòng không oán trách. Đây gọi là ý nhẫn.
Ở thế gian, sự đánh đập có 2 trường hợp: 1. Sự thật. 2. Ngang ngược.
1. Nếu mình có lầm lỗi, bị người hiềm nghi, bị người đánh đập, ta phải nhẫn chịu như uống nước cam lộ. Đối với người đó còn phải sanh lòng cung kính, sở dĩ người đó làm như vậy là vì khéo răn dạy, điều phục ta, khiến ta từ bỏ các lầm lỗi vậy.
2. Nếu có kẻ ngang ngược với ác tâm làm thương tổn ta, thì phải tự suy nghĩ, ta nay không tội, đây chính là túc nghiệp đời quá khứ chiêu cảm cho nên phải nhẫn chịu. Lại phải suy nghĩ, thân này do tứ đại giả hợp, ngũ ấm duyên hội, thì ai là người chịu đánh? Lại quán suy người trước mặt đánh ta là người si, người cuồng, ta phải thương xót họ, sao lại không nhẫn?
Lại nữa, người nhục mạ cũng có 2 hạng: 1. Sự thật, 2. Hư dối.
Nếu người nói lên sự thật, ta phải sanh lòng hổ thẹn.
Nếu người nói lời hư dối, việc đó vô can với ta, thì coi như tiếng vang, gió thoảng, không làm tổn hại ta được, nhưng vẫn phải nhẫn.
Lại nữa, đối với người sân hận cũng vậy. Người kia trút tất cả giận dữ lên ta, ta phải nhẫn chịu. Nếu ta giận dữ lại với người kia thì ở đời vị lai phải đoạ ác đạo, chịu đại khổ não. Do nhân duyên như vậy, thân ta dù bị cắt xẻo phân ly cũng không khởi lòng sân hận, (trái lại) cần phải quán sát sâu xa nhân duyên nghiệp đời trước, phải tu tập lòng từ bi, thương xót tất cả. Việc khổ nhỏ như vậy mà ta không có khả năng nhẫn, tức là không có khả năng tự điều phục tâm, thì làm sao có khả năng điều phục chúng sanh, khiến chúng sanh được giải thoát tất cả ác pháp, thành tựu quả Vô thượng. Nếu có người trí, ưa tu nhẫn nhục thì người đó được dung mạo đoan chánh, tài bảo sung túc, người khác thấy sanh lòng hoan hỷ, cung kính, ngưỡng mộ, phục tùng. Lại phải quán sát, nếu có người hình dáng hung dữ, nhan sắc xấu ác, các căn không đủ, tài vật túng thiếu, phải biết đó là do nhân duyên sân hận trước kia mà nay phải như vậy. Vì hiểu biết nhân duyên như vậy mà bậc trí quyết tu tập nhẫn nhục một cách thâm sâu.
Nhân duyên phát sanh nhẫn nhục có 10 sự:
1.Không quán suy tướng ngã và ngã sở.
2.Không nghĩ về chủng tính (giai cấp).
3.Phá trừ lòng kiêu mạn.
4.Điều ác đến với mình không cần chống trả.
5.Quán tưởng sự vô thường.
6.Tu tập tâm từ bi.
7.Tâm không phóng dật.
8.Bỏ ra ngoài sự đói khát, khổ vui … (của bản thân).
9.Đoạn trừ sân hận.
10. Tu tập trí tuệ.
Nếu người nào có thể thành tựu được 10 sự như vậy, nên biết người đó có khả năng tu nhẫn nhục.
Khi hàng bồ tát ma ha tát tu thanh tịnh tất cánh (rốt ráo) nhẫn, tức là khi ngộ nhập “không, vô tướng, vô nguyện, vô tác”75, thì không cho “kiến, giác, nguyện, tác”76 hòa hợp. Cũng không dính mắc “không, vô tướng, vô nguyện, vô tác”, nên “kiến, giác, nguyện, tác” thảy đều không. Pháp nhẫn như vậy là pháp vô nhị tướng (không kẹt nơi hai tướng), gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn77.
Nếu vào tận kết78, nếu vào tịch diệt, thì không cho chư kết và sanh tử hòa hợp. Cũng không dính mắc tận kết và tịch diệt, nên chư kết và sanh tử thảy đều không. Pháp nhẫn như vậy là pháp vô nhị tướng, gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn.
Nếu (pháp) tánh chẳng phải tự sanh, không từ tha sanh, chẳng phải hòa hợp sanh, cũng không từ đâu đến, không thể phá hoại; vì không thể phá hoại nên không cùng tận. Pháp nhẫn như vậy là pháp vô nhị tướng, gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn.
Không làm nhưng cũng không có việc gì không làm, không dính mắc việc làm, không phân biệt, không trang nghiêm, không sửa đổi, không khởi phát, đến đi. Rốt lại là không tạo tác, sanh khởi gì cả. Pháp nhẫn như vậy gọi là vô sanh nhẫn79.
Hàng bồ tát tu hành pháp nhẫn như vậy thì được thọ ký nhẫn. Hàng bồ tát ma ha tát tu hành nhẫn nhục dù là tánh hay tướng cũng rốt ráo không, vì (không thấy mình nhẫn,) không thấy có chúng sanh (là đối tượng để nhẫn). Đây gọi là đầy đủ pháp sằng đề ba la mật vậy.