Home » Tàng Kinh Các » Đức Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni

Đức Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni

Mục Tàng Kinh Các

(Bản Kinh này đã được kiểm tra chính tả và những lỗi sai sót trong khi đánh máy)

PHẬT THUYẾT KINH DIỆT TỘI TRƯỜNG THỌ
VÀ THẦN CHÚ BẢO HỘ HÀI NHI

Sa Môn Phật-Đà-Ba-Lợi, nước Kế Tân phụng chiếu dịch Phạn Hán
Tỳ kheo Không Trú dịch Hán Việt

Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật (1) trong thành Vương Xá với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo, mười hai ngàn vị đại Bồ Tát, và vô số Thiên Long Bát Bộ (2) quỷ thần, người, phi nhân (3) cùng đến để nghe Phật thuyết pháp.

Bấy giờ, từ nơi mặt Phật phóng ra vô số hào quang năm màu: xanh, vàng, đỏ, trắng và cam. Trong mỗi màu có vô số hóa Phật làm nhiều Phật sự không thể nghĩ bàn. Mỗi mỗi hóa Phật có vô lượng hóa Bồ Tát ca tụng ân đức của Phật.

Hào quang vi diệu khó lường, trên chiếu đến cõi trời Phi Phi Tưởng (4), dưới chiếu đến địa ngục A Tỳ (5), sáng soi mọi nơi đến tám vạn vòng. Chúng sanh trong đó khi tiếp xúc được hào quang của Phật, tự nhiên nhớ Phật, tất cả đều đắc Sơ Địa Phương Tiện Tam Muội.

Bấy giờ trong hội chúng có bốn mươi chín người mới phát tâm Bồ Tát, các vị này muốn thưa thỉnh đức Phật làm sao được sống lâu nhưng e dè không dám bạch Phật.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (6) thấu hiểu chổ thắc mắc của họ, nên từ chỗ ngồi đứng dậy, trệch vai áo bên phải, chấp tay bạch Phật: Bạch Thế Tôn, con thấy trong hội chúng có điều thắc mắc, muốn hỏi, cúi xin Thế Tôn lắng nghe lời con hỏi sau đây?

Phật dạy: Tốt lắm! Tốt lắm! Nếu ông thấy trong hội chúng có điều gì thắc mắc thì cứ hỏi.

Ngài Văn Thù hỏi: Bạch Thế Tôn, chúng sanh trôi lăn trong sanh tử, đã làm các nghiệp ác trong nhiều đời nhiều kiếp, loanh quanh trong sáu đường (7), lúc được thân người lại bị chết trẻ. Vậy làm thế nào được sống lâu và diệt các tội ác? Cúi xin Thế Tôn dạy cho cách được sống lâu.

Phật dạy: này Văn Thù, lòng từ bi của ông bao la, thương tưởng nổi khổ của chúng sanh nên hỏi ta việc này. Nhưng nếu ta giảng giải rộng e rằng chúng sanh khó tin và làm theo.

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, ngài thấu hiểu mọi việc, bậc thầy của trời người, che chở chúng sanh, là đấng cha lành có thể diễn thuyết cho mọi loài, bậc vua của vạn pháp, cúi xin Thế Tôn thương xót giảng dạy cho.

Đức Phật mỉm cười, dạy rằng: Các ông lắng nghe, ta sẽ vì các ông giảng dạy.

Cách đây khá lâu, có thế giới tên Vô Cấu Thanh Tịnh. Thế giới ấy có Đức Phật ra đời tên là Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn (8) được vô số các vị Bồ Tát cung kính nhiễu quanh.

Lúc đức Phật ấy giảng dạy, có vị Ưu-bà-di (9) tên là Điên Đảo, nghe Phật ra đời, ước muốn xuất gia, khóc lóc thảm thiết, bạch Phật như vầy: Bạch Thế Tôn, con đã gây nghiệp ác, cầu mong sám hối, cúi xin Thế Tôn lắng nghe con trình bày.

Trước đây, con đã mang thai tám tháng, vì gia qui nghiêm ngặt, không muốn đứa bé ra đời, nên uống thuốc phá thai, thai nhi đã chết dù đã đầy đủ hình người.

Có vị hiểu đạo đã đến nói với con rằng: Nếu ai cố ý giết hại thai nhi, người ấy đời này mắc bệnh rất nặng, đời sống ngắn ngủi, sau khi chết đọa vào địa ngục A Tỳ, chịu biết bao thống khổ. Nay con rất hối tiếc lại thêm sợ hãi, cúi xin Thế Tôn, thương xót con, cho con được xuất gia, vì con giảng dạy để giải trừ nổi khổ.

Lúc bấy giờ ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai dạy Ưu-bà-di Điên-Đảo rằng: Ở đời có năm việc, khi đã làm xong, sám hối khó dứt tội.

Một là giết cha
Hai là giết mẹ
Ba là giết thai nhi
Bốn là làm thân Phật chảy máu
Năm là phá hòa hiệp Tăng.

Các nghiệp xấu ác như vậy, dù có sám hối cũng khó hết sạch.

Bấy giờ bà Điên-Đảo, nước mắt đầm đìa, kêu khóc thảm thiết, năm vóc sát đất, quỳ lạy trước Phật, bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn, cúi xin Ngài thương xót và cứu vớt chúng sanh, giảng dạy cho chúng con.

Ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai dạy: Này Ưu-bà-di Điên-Đảo, tội ác của ngươi tày trời, chắc chắn sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ, không có ngày ra khỏi. Trong địa ngục nóng, bức bách khủng khiếp, tạm thời gặp được luồng gió lạnh, tội nhân tạm được mát. Trong địa ngục lạnh, lạnh thấu tim gan, tạm thời gặp được luồng gió ấm, tội nhân tạm được ấm. Nhưng trong địa ngục A Tỳ, chuyện đó không có. Ở trên lửa hực xuống dưới, ở dưới lửa bốc lên trên, bốn bề có tường sắt vây quanh, trên dưới đều có lưới sắt bao phủ. Bốn cửa Đông Tây, có lửa nghiệp cực mạnh. Mỗi mỗi người tội, thân hình biến tràn 8 vạn do tuần tràn khắp địa ngục.

Có rắn sắt to lớn, phun ra lửa độc thiêu đốt người tội đau nhức vô cùng. Hoặc từ miệng vào, hoặc từ mắt, tai thường phun lửa mạnh bao phủ người tội cả trăm ngàn kíếp.

Lại có chim ưng sắt phanh thây xẻ thịt, hoặc có chó sắt nhai ngấu người tội, ngục tốt đầu trâu mặt ngựa tay cầm binh khí la hét vang trời tợ như sấm sét. Ngươi đã giết thai nhi, phải chịu tội khổ, Ta nói thật cho ngươi biết khổ báo như vậy.

Lúc bấy giờ Ưu-bà-di Điên Đảo nghe Phật dạy rồi, buồn khóc tạm ngưng mà bạch Phật rằng: Không riêng gì con, đa số chúng sanh chiụ khổ như vầy.

Đức Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai gọi Ưu-bà-di Điên Đảo nói rằng: Con ngươi trong bào thai, các căn đầy đủ, gần đến ngày sanh.

Thai nhi ở trong bào thai, khác gì địa ngục, bị viên đá đè ép cả thân. Nếu mẹ ăn đồ nóng, thai nhi bị nóng khác nào trong địa ngục nóng. Khi mẹ ăn đồ lạnh; thai nhi bị lạnh, khác nào trong địa ngục lạnh, trọn ngày suốt đêm chịu nhiều đau khổ.

Nhà ngươi vô minh, cố giết thai nhi, bèn uống thuốc trục thai; vì tội ác này, ngươi sẽ phải bị đọa vào địa ngục A Tỳ ở chung với những người tội trong ấy.

Ưu-bà-di Điên Đảo khóc lóc bạch Phật, con nghe kẻ trí nói như vầy: Nếu đã làm điều ác, mà gặp được Phật hay thánh Tăng, nguyện xin sám hối, tội lỗi hết sạch. Cho dù đã chết, đọa vào các ngục, làm vài việc tốt, cũng được sanh lên cõi trời, ý Ngài thế nào, xin Ngài chỉ dạy.

Ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai gọi Ưu-bà-di Điên Đảo dạy rằng: “Nếu có chúng sanh đã làm các việc cực ác, nếu gặp được Phật và Thánh Tăng, hết lòng chừa bỏ, không dám làm nữa. Các tội hết sạch. Giả sử đã chết, Diêm La xét hỏi, nặng nhẹ chưa rõ, nếu có bà con họ hàng quyến thuộc, thỉnh Phật rước Tăng chỉ trong bảy ngày, chuyên tụng kinh điển đại thừa phương đẳng, cúng dường hương hoa, có các sứ giả Diêm La xét lại việc tốt xấu, tay cầm phan trần năm màu đi đến Diêm Vương (10), trước sau phan thần, ca múa hát xướng, loa kèn trống phách, âm thanh vui vẻ, báo lại Diêm La, người đó tích đức; hoặc các vong hồn trong vòng bảy ngày, trước đây theo tà bỏ chánh, tà kiến điên đảo, không tin Tam Bảo, lòng dạ xấu ác, nào chút thương tâm, sứ giả Diêm La, tay cầm phan đen, trước sau phan đen có vô số ác quỷ cẩn báo Diêm La, người này quá ác.

Khi Diêm La thấy phan thần năm màu lòng dạ vui vẻ, to tiếng nói rằng: Cầu mong tội lỗi của con biến đổi như những điều tốt đẹp của người làm việc tốt này. Liền ngay khi ấy lửa hực trong địa ngục biến thành suối mát, núi đao rừng kiếm hóa thành hoa sen. Tất cả người tội đều được an vui.

Khi thấy phan đen, Diêm La bực tức, la hét vang rền, xua đuổi người tội vào trong mười tám ngục, bắt leo rừng kiếm hoặc lên núi dao, hoặc nằm giường sắt, hoặc ôm trụ đồng, kéo lưỡi trâu cày, hoặc ném vào cối giả. Chỉ trong một ngày muôn lần sống chết, lẩn quẩn loanh quanh trong A Tỳ ngục chịu bao thống khổ, đời đời kiếp kiếp không mong ngày ra.

Đang lúc nghe giảng, có tiếng kêu lớn, rung động góc trời, gọi tên Ưu-bà-di Điên Đảo: Ngươi cố ý giết hại bào thai, ta là sứ giả Diêm La đến đoạt mạng sống của ngươi. Ưu-bà-di Điên Đảo, run sợ khóc lóc, bèn ôm chân Phật, van vái mong cầu Thế Tôn vì con giảng dạy phương pháp diệt tội, phước lành tăng trưởng, trọn đời trọn kiếp con xin noi theo.

Bấy giờ ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai, dùng oai thần của Phật bảo sứ giả rằng: “Này vô thường sát quỷ, Ta đang vì Ưu-bà-di Điên Đảo giảng kinh Diệt Tội Kéo Dài Mạng Sống, lắng lòng mà nghe. Chư Phật đời trước, giảng dạy phương pháp tuyệt diệu để có được mạng sống dài lâu, khiến cho chúng sanh xa lìa ác đạo.

Này Ưu-bà-di Điên Đảo nên biết, sát quỷ vô thường khó lòng tránh khỏi. Cho dù có vô lượng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não mà đem chuộc mạng cũng không thể nào được, hay vua, quan, con vua, đại thần, trưởng giả v.v… ỷ vào thế lực của mình xua đuổi sát quỷ vô thường để bảo vệ mạng sống cũng không thể được.

Này Điên Đảo nên biết! Chỉ cần một lời dạy của chư Phật, xóa sạch khổ này. Này Điên Đảo, ở trên đời này có hai hạng người khó tìm thấy như hoa ưu bát:

Một là không làm bất cứ việc gì xấu ác.
Hai là đã làm những việc sai trái mà biết ăn năn sám hối. Hạng người như vậy khó tìm thấy ở đời.

Hôm nay, ngươi hết lòng ăn năn hối cải nơi ta. Ta sẽ vì ngươi giảng dạy phương pháp sống lâu, khiến cho chúng sanh tránh khỏi sát quỷ vô thường.
Này Điên Đảo, ở đời vị lai, năm trược (11) lẩy lừng, nếu có kẻ nào làm những việc cực ác như: giết cha, hại mẹ, uống thuốc trục thai, phá tháp, đập chùa, chà đạp tượng Phật, phá hòa hợp Tăng. Dẫu cho đã làm những tội nặng như vậy, nếu biết ăn năn hối cải, đọc tụng kinh này hay in ấn tống, hay nói người khác cùng nhau ấn tống, không những sạch tội mà còn sanh lên cõi Phạm thiên.

Huống chi hôm nay ngươi được gặp Ta, lành thay Điên Đảo, trong nhiều đời nhiều kiếp, ngươi gieo trồng căn lành, thành tâm ăn năn sám hối, lại thưa thỉnh Ta giảng dạy phương pháp sống lâu, đem nhiều lợi lạc quần sanh, đánh dẹp thiên ma Ba Tuần (12) giành về chiến thắng. Nay Ta y theo chư Phật đời trước giảng dạy mười hai nhân duyên, ngươi hãy lắng nghe cho kỹ.

Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên sống chết khổ đau sầu muộn.

Khi vô minh diệt thì hành diệt, khi hành diệt thì thức diệt, khi thức diệt thì danh sắc diệt, khi danh sắc diệt thì lục nhập diệt, khi lục nhập diệt thì xúc diệt, khi xúc diệt thì thọ diệt, khi thọ diệt thì ái diệt, khi ái diệt thì thủ diệt, khi thủ diệt thì hữu diệt, khi hữu diệt thì sanh diệt, khi sanh diệt thì sống chết buồn rầu khổ não diệt.

Này Ưu-bà-di Điên Đảo, tất cả chúng sanh loanh quanh qua lại sáu nẻo luân hồi chịu vô lượng khổ, vì không thấu rõ mười hai nhân duyên, tức thấy được pháp, thấy pháp là thấy Phật, thấy Phật tức thấy Phật tánh. Tại sao vậy? Tất cả chư Phật đều lấy mười hai nhân duyên làm tánh.

Hôm nay, ngươi được nghe ta giảng dạy lý mười hai nhân duyên này, do vậy ngươi được Phật tánh thanh tịnh, xứng đáng làm Pháp Khí. Ta sẽ vì ngươi giảng dạy lý Nhứt thừa, ngươi phải suy nghĩ, gìn giữ nhứt niệm, nhứt niệm chính là tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là đại thừa.

Chư Phật và các vị Bồ Tát vì chúng sanh phân biệt nói ba thừa. Ngươi phải luôn luôn một lòng trân trọng gìn giữ tâm Bồ đề, chớ có quên mất.

Cho dù có năm ấm (13), bốn rắn (14), ba độc (15), sáu giặc (16), tất cả ma quái đến xâm phạm hay quấy phá, ngươi cũng không nên thay đổi tâm Bồ đề này.

Do gìn giữ tâm Bồ đề (17) như vậy nên thân như Kim Cang, tâm như hư không, khó có thể hư hoại. Vì không hư hoại nên được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (18). Vì được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề nên được đầy đủ Thường – Lạc – Ngã – Tịnh (19). Xa lìa sát quỷ vô thường, không còn sống chết, hết hẳn các khổ ở địa ngục.

Trong lúc Đức Phật đang giảng dạy, trên hư không ác quỷ bạch rằng: con nghe Thế Tôn giảng dạy pháp mầu, địa ngục thanh tịnh, biến thành ao sen, bản thân con thoát khỏi cảnh giới ác quỷ. Ác quỷ thưa tiếp: Điên Đảo, bà đã đạt đạo, xin độ chúng sanh.

Bấy giờ ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai lại gọi Điên Đảo, “Ta đã vì ngươi giảng dạy mười hai nhân duyên xong rồi, nay giảng dạy thêm sáu Ba-la-mật (20), ngươi cố gắng làm theo.

Một là Bát-Nhã ba-la-mật.
Hai là Thiền Định ba-la-mật.
Ba là Tinh Tấn ba-la-mật.
Bốn là Nhẫn Nhục ba-la-mật.
Năm là Trì Giới ba-la-mật.
Sáu là Bố Thí ba-la-mật.

Sau đây là bài kệ, chư Phật đời trước nhờ đó mà thành đạo:
Các hành thay đổi
Là lý sống chết
Sống chết hết rồi
Vắng lặng an vui.

Bấy giờ Ưu-bà di Điên Đảo nghe được pháp lòng rất vui mừng, tức thời tỏ rõ, thấu hiểu sâu xa, nương theo thần lực của Phật bay lên hư không, cao bằng bảy cây đa-la (21), lòng yên thiền định.

Khi ấy có môt vị Bà La Môn (22) giàu có vô cùng, chẳng ai sánh kịp, bất chợt bệnh nặng, thầy thuốc xem xong, cần con ngươi của người, pha trộn với thuốc mới mong hết bệnh.

Bấy giờ ông Bà La Môn ra lệnh cho những người làm, đến ngã tư đường to tiếng nói rằng: “Có ai chịu đau đớn bán hai tròng mắt, sẽ được trả giá hàng ngàn lượng vàng, trong kho châu báu, muốn gì cứ lấy, lòng không hối tiếc.”

Ưu-bà-di Điên Đảo nghe được lời rao, lòng rất thích thú, suy ngẫm như vầy: Ta được nghe Phật giảng dạy phương pháp sống lâu, dứt sạch nghiệp xấu, lòng ta tỏ rõ, thấu hiểu Phật tánh, lại được xa lìa sát quỷ vô thường, các khổ điạ ngục, ta nay dầu nghiền nát thân này cũng chưa đền đáp từ ân của Phật, nên lớn tiếng nói rằng: “Ta đã bốn mươi chín tuổi, theo Phật nghe giảng dạy phương pháp sống lâu, không tham sống sợ chết, nghiền nát thân này để chép bốn mươi chín quyển kinh Phương Pháp Sống Lâu. Cầu mong tất cả chúng sanh đọc tụng thọ trì. Ta phải bán đôi mắt để chép kinh này, đôi mắt ta vô giá, tùy ý ông trả bao nhiêu cũng được.”

Bấy giờ trời Đế Thích (23), biến ra bốn mươi chín người đi đến chỗ của Ưu-bà-di Điên Đảo, nói rằng chúng tôi vì bà chép kinh Phương Pháp Sống Lâu này. Bà thấy bốn mươi chín bản kinh rồi, sau đó bán mắt cũng không muộn.

Ưu-bà-di Điên Đảo, lòng tràn cảm động, chẻ xương làm viết, lấy máu làm mực, trải da làm giấy để chép kinh này qua bảy ngày đêm; khi chép kinh xong, bốn mươi chín người chép kinh thưa với Ưu-bà-di Điên Đảo, chúng tôi đã chép kinh xong, như trước bà hứa cho đôi mắt, nay đưa chúng tôi để bán cho Bà La Môn.

Bấy giờ Ưu-bà-di Điên Đảo sai một gã Chiên Đà La (24) dùng dao khoét mắt bà, lấy hai con ngươi; giao cho bốn mươi chín người chép kinh, tiền bán được phân chia cho đều. Gã Chiên Đà La chuẩn bị ra tay, bốn mươi chín người chép kinh cùng nhau thưa rằng: Thật hiếm thấy, thật hiếm có, không thể nghĩ bàn, bà đã chẻ xương làm viết, lấy máu làm mực, trải da làm giấy biên chép kinh này, đau đớn vô cùng, mà bà chịu được, không tiếc thân mạng. Chúng tôi nỡ lòng nào lấy đôi mắt của bà đem bán cho ông Bà La Môn kiếm chút vàng bạc châu báu.

Bấy giờ vua rồng Nan Đà (25) v.v… dùng oai lực lớn làm trò biến hóa lấy trộm các kinh của bà Điên Đảo, đem xuống cung rồng đọc tụng cúng dường chỉ trong nháy mắt bà Điên Đảo thấy kinh bị trộm, nước mắt đầm đìa, nghẹn ngào bạch Phật, bạch đức Thế Tôn, con xả thân mạng biên chép kinh Phương Pháp Sống Lâu, phân phát cho mọi người, bỗng nhiên biến mất, lòng con sầu khổ khó nỗi giải bày.

Ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai bảo Ưu-bà-di Điên Đảo, những bộ kinh của ngươi được vua rồng Nan Đà thỉnh về cung rồng để đọc tụng cúng dường. Ngươi nên vui mừng, không nên sầu khổ. Lành thay Ưu-bà-di Điên Đảo, do công đức này, sau khi mạng chung, ngươi được sanh lên cõi trời Vô Sắc (26), hưởng thọ sung sướng, không còn trở lại với thân người nữ.

Ưu-bà-di bạch Phật, bạch đức Thế Tôn, con không ao ước sanh lên cõi trời, con chỉ mong sao đời đời kiếp kiếp thường gặp Thế Tôn, Phật tâm không lay chuyển, nơi nơi chốn chốn vì các chúng sanh giảng dạy kinh này khiến cho mọi loài thoát nỗi khổ triền miên.

Ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai hỏi: “Điên Đảo, ngươi có thật lòng như vậy chăng?” Bạch Ngài, nếu con nói dối thì bị sát quỷ vô thường bức chết, nếu con thật lòng, xin vừa nói xong, thân được lành lặn như cũ.

Ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai nói: “Này Điên Đảo, ngươi một lòng niệm Phật, nên từ cõi Phật nầy đến các cõi Phật khác, ngươi có thể thấy vô số Phật. Không có chữ nghĩa, lời nói nào mô tả sự kiện này được.”

Bấy giờ, Ưu-bà-di Điên Đảo, chỉ trong nháy mắt đã chứng được vô sanh pháp nhẫn, tam miệu tam bồ đề.
Này Văn Thù Sư Lợi! Phổ Quang Như Lai là tiền thân của Ta vậy. Điên Đảo Nữ Nhân chính là tiền thân của Ông. Còn bốn mươi chín người chính là tiền thân của các vị Bồ Tát mới phát tâm. Ta đã từ vô lượng kiếp lại đây thường giữ gìn thân, thường cùng các ông giảng dạy kinh này khiến tất cả ác nghiệp của chúng sanh đều dứt sạch sau khi được nghe chỉ nửa bài kệ của kinh Trường Thọ này.

Bấy giờ vua Ba Tư Nặc (27), đang ở trong cung, nửa đêm nghe tiếng đàn bà khóc lóc nỉ non, đau đớn, sầu thảm. Nhà vua tự nghĩ, ta ở cung vua chưa từng xảy ra việc này, tại sao có tiếng khóc lóc sầu não thế này.

Sáng ra, khi quần thần nhóm họp, vua ra lệnh đi tìm người đàn bà này trong cung cũng như các đường phố. Bầy tôi tìm được, dẫn đến trước vua, bà này run sợ, tái mặt ngất xỉu. Nhà vua ra lệnh lấy nước lạnh rảy vào mặt bà, lần lần tỉnh lại. Nhà vua bèn hỏi: “Có phải đêm qua nhà ngươi khóc kể phải không?” Người đàn bà ấy đáp: “Bẩm vua, đúng vậy.” “Ai bức ép ngươi mà đau khổ vậy?” “Bẩm vua, không có ai bức ép tiện dân, chỉ vì buồn phiền mà thôi.” “Thật không ai hiếp đáp ngươi?” “Bẩm vua, đúng vậy. Bẩm vua, xin nghe lời tiện dân trình bày. Lúc tiện dân vừa tròn mười bốn tuổi, gả sang nhà chồng, ăn ở với nhau hơn ba mươi năm, sanh được ba mươi đứa con. Đứa đầu lòng mặt mũi sáng lạng, mắt thanh mày tú, môi đỏ như son, răng trắng như ngọc, thân hình phơi phới, cuối hạ thu sang như hoa mùa xuân… chưa đầy một tuổi, bỏ tiện dân ra đi, tiện dân thương nhớ cả ngày suốt đêm, y như ruột gan cắt đứt từng đoạn, khác gì mạng sống của tiện dân.

Đứa bé sau cùng lại đang hấp hối khác gì mạng sống tiện dân, do vậy đêm hôm qua tiện dân sầu khổ khóc lóc.

Bấy giờ vua Ba Tư Nặc nghe xong, lòng buồn rũ rượi, lê dân bá tánh nương nhờ nơi ta, nếu không ra tay giúp đỡ, thật không xứng đáng làm vua. Liền tập hợp quần thần cùng nhau bàn bạc. Nhà vua có sáu vị quan đại thần: Một là Kiến Sắc, hai là Văn Thinh, ba là Hương Túc, bốn là Biện Tài, năm là Tùy Duyên, sáu là Dị Nhiễm cùng nhau tâu vua rằng: Trẻ nít mới sanh, thường bị chết yểu, phải lập đàn tràng cúng tế bảy đại hùng tinh và hai mươi tám vị sao, hy vọng kéo dài mạng sống, cúi mong bệ hạ ra chiếu chỉ phổ biến thiên hạ. Bấy giờ có một vị quan sáng suốt, từng gieo trồng căn lành nơi vô số chư Phật tên là Định Tuệ, đến trước vua tâu rằng: Bệ hạ nên nghĩ lại, lời tâu của sáu vị thần kia không thể nào làm hết thống khổ. Nay có bậc thầy, họ Cù Đàm, hiệu là Tất Đạt, không thầy mà ngộ, nay đã thành Phật, hiện ở núi Kỳ Xà Quật, đang giảng phương pháp sống lâu. Mong bệ hạ đến đó nghe giảng. Bất cứ ai, nếu nghe được nửa bài kệ của kinh này, trăm kiếp ngàn đời có làm các việc cực ác cũng được tiêu sạch. Còn các trẻ nít nếu được nghe, mặc dầu chưa hiểu cũng được sống lâu là nhờ công đức của kinh.

Vua Ba Tư Nặc nói: Ta đã từng nghe Lục Sư ngoại đạo (28) nói rằng: Sa Môn Cù Đàm sức học cạn cợt, tính tình con nít, tuổi còn thơ ngây, sách vở ngoại đạo đầy dẫy ảo thuật, biến hoá có có không không. Còn Cù Đàm không có, e tôn sùng ông, mất chánh đạo chăng?

Bấy giờ Định Tuệ dùng kệ tâu vua:

Thích Ca Mâu Ni
Bậc thầy trời người
Trong bao nhiêu kiếp
Khó nhọc tu hành
Nay đã thành Phật
Ở Ba La Nại
Chuyển bánh xe pháp
Như Phật xưa kia
Không trái lời thề
Cứu giúp chúng sanh
Lòng thương bao la
Quần mê lợi lạc
Gặp Phật rất khó
Khác nào rùa mù
Gặp cây biển cả
Cũng như hoa thơm
Tuyệt vời bát la
Cúi mong bệ hạ
Mau đến nghe pháp
Không nên tin lời
Lục Sư ngoại đạo.

Sau khi nói kệ xong, Định Tuệ dùng thần lực từ đất vọt lên hư không cao đến bảy cây đa-la, đến trước mặt vua, dùng thần thông đem núi Tu-di và nước biển cả chảy vào tâm ông chỉ trong nháy mắt, bình an không ngại.

Vua Ba Tư Nặc thấy những việc này, lòng rất vui vẻ, thốt lời ca tụng: Đây thật bạn lành ít có trong đời. Nhà vua lễ lạy Định Tuệ và thưa lời rằng: Thầy ngài là ai? Định Tuệ bảo rằng: Thầy ta chính là đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện đang ở tại thành Vương Xá trên núi Kỳ Xà Quật, đang giảng phương pháp kéo dài mạng sống, dứt sạch tội lỗi. Nhà vua nghe rồi trong lòng thỏa thích, bèn giao chuyện nước cho Định Tuệ, cùng bà con họ hàng, quan lớn quan nhỏ, cung phi mỹ nữ, các con cháu nhỏ, và người đàn bà đã khóc trong đêm đi xe bốn ngựa, trang hoàng lộng lẫy, lại mang hoa hương, trăm món cúng dường đến thành Vương Xá, lên núi Kỳ Xà Quật, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, chấp tay cúi đầu lễ lạy đức Phật, dâng hoa cúng dường. Sau đó bạch Phật mọi chuyện xảy ra.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo vua Ba Tư Nặc, người đàn bà này ở thời xa xưa, làm bà vợ bé, lòng hay ganh ghét, pha thuốc độc giết hại ba mươi đứa con của bà vợ lớn. Ba mươi đứa con thề độc như vầy: Đời đời kiếp kiếp thường làm con của bà, nhưng hợp rồi tan, khiến bà khổ sở, buồn thảm khủng khiếp.

Hôm nay người đàn bà này đến đây nghe ta giảng dạy phương pháp sống lâu, chỉ cần một bài kệ cũng đủ giúp bà dứt hết sầu khổ!

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo đại chúng: Khi thân trung ấm vào bụng mẹ, thiên ma Ba Tuần liền cho bốn con rắn cực độc và sáu thằng giặc giết hại thai nhi, nếu ai không tự cảnh giác, mạng căn lìa đời.

Nay ta có thần chú làm lợi ích cho các thai nhi, là kéo dài mạng sống, nếu bất cứ ai một lần thoáng nghe thần chú này, tai ách và cực khổ đều tiêu tan, xua đuổi ác quỉ tháo chạy khắp nơi. Thần chú như sau:
Ba đầu di ba
Đầu di đề tỳ
Hề ni hê ni
Hề di chư
Chư la chư lê
Hầu la hầu la
Do lệ do la
Do lệ ba la ba lệ văn
Chế san điệt
Tần điệt bát thệ mạt điệt trì na ca
Ta bà ha.

Đức Phật dạy: Nếu có thiện nam tín nữ nào, thường xuyên đọc tụng thần chú này, hay chỉ trong bảy ngày bảy đêm đốt hương dâng hoa cúng dường, hay in chép ấn tống, một lòng nhớ nghĩ, thì các bệnh nặng hoặc nghiệp chướng sâu dày đời trước đều được tiêu tan. Các bà mẹ đang mang thai hay sắp sanh nở thì mẹ tròn con vuông, mọi việc đều được an lành.

Bấy giờ Bồ Tát Y Vương tên là Kỳ Bà, đến trước đức Phật và bạch: Bạch đức Thế Tôn, con là thầy thuốc, chữa mọi thứ bệnh, từ đó có kinh nghiệm về các thai-nhi còn trong bụng mẹ, có chín thứ bệnh làm cho các thai nhi và hài nhi chết non như sau:

Một là cha mẹ ăn ở với nhau không phải lúc.
Hai…. (bị thiếu)
Ba là lúc sanh nở cắt rún không cẩn thận, băng bó có lệ, vi trùng dễ xâm nhập vào cơ thể em bé.
Bốn là lúc sanh nở không lau chùi máu huyết và tắm rửa em bé sạch sẽ.
Năm là lúc sanh nở giết hại sinh vật bày tiệc tùng ăn uống nhậu nhẹt say sưa.
Sáu là lúc sanh nở, bà mẹ ăn uống bừa bãi, nhứt là các món đông lạnh khó tiêu.
Bảy là lúc sanh nở, em bé bị bệnh, móm cho em bé cá thịt tạp nhạp.
Tám là lúc sanh nở, thấy nhiều điều không tốt như mẹ chết con chết, hay thấy nhiều thây chết, nhiều chuyện quái dị xảy ra, viết thần chú này, cho em bé đeo, mọi thứ không hay, đều chấm dứt hết.
Chín là bồng bé đi đêm, bị ác quỷ ác ma đánh đập. Nếu các bà mẹ, tránh các điều trên, chắc chắn em bé không bị chết.

Bấy giờ thiên ma Ba Tuần có tha tâm thông, ở trong cung ma, biết Phật giảng dạy phương pháp sống lâu, diệt sạch tội lỗi và thần chú bảo vệ thai nhi, lòng rất giận dữ, la hét om sòm, bực tức không vui. Ông có ba người con gái, hay chuyện đến trước mặt ông thưa: Thưa cha, tại sao cha buồn rầu khổ não như vậy? Ông nói: Gã Cù Đàm sa môn hiện ở thành Vương Xá, trên núi Kỳ Xà Quật vì vô lượng vô biên chúng sanh giảng dạy phương pháp sống lâu, truyền bá mọi nơi nhờ vậy chúng sanh được sống lâu và an lạc, lấn chiếm loài ma quái của mình, nên cha tức giận và khởi ác tâm hô hào dòng họ, bạn bè, bà con và các binh ma kéo lên núi Kỳ Xà Quật, quyết đánh một trận sống chết với gã Cù Đàm. Giả sử thua trận, thì cha dùng thần lực của cha, bịt các lỗ tai của chư thiên và đại chúng, khiến chúng không nghe được lời giảng dạy của Cù Đàm.

Bấy giờ ba ma nữ, con gái của ông nói kệ ngăn cản cha:

Chúng con ba đứa
Con gái của cha
Cúi đầu đảnh lễ
Thưa cha xét lại
Sa môn Cù Đàm
Bậc thầy trời người
Pháp thuật của cha
Không ngăn cản nổi
Trước đây Cù Đàm
Ngồi tòa kim cang
Dưới cội Bồ Đề
Chiến thắng bọn ma
Tụi con bấy giờ
Gái trời sinh đẹp
Khêu gợi hết cỡ
Lòng ngài không chút
Nhiễm ô bụi trần
Ngài xem tụi con
Như mấy cụ già
Nay ngài là bậc
Chánh đẳng Chánh giác.
Cung tên gươm giáo
Gậy gộc dao mác
Lẩn quẩn trên trời
Không gây thương tật
Ngài xem bọn ta
Như trò con nít
Lòng không sợ sệt
Làm sao chiến thắng
Nay đã thành đạo
Vua pháp muôn loài
Xin cha nguôi giận
Từ bỏ ác tâm.

Bấy giờ ma vương Ba Tuần, sau khi nghe kệ can gián của các con, lòng không thay đổi, ra lệnh chúng ma rủ rê quyến thuộc hãy đến chỗ Phật, dùng mọi mánh khóe giả tin theo Phật, nếu Phật tin dùng, dùng mọi gian xảo cản ngăn kinh này. Cả bọn đồng lòng, đi đến chỗ Phật, nhiễu quanh bảy vòng, quỳ lạy rồi bạch: Bạch Thế Tôn, ngài giảng dạy có mỏi mệt không? Hôm nay con và bà con họ hàng cùng chúng ma đến đây để nghe Phật giảng phương pháp sống lâu và xin làm đệ tử mong ngài hoan hỷ nhận lời.

Bấy giờ Thế Tôn, ôn tồn dạy bảo: Khi còn trong cung ma, nhà ngươi giận dữ, bày kế lại đây, lâu la rình mò. Trong pháp của ta không chấp nhận những hạng người xảo trá như ngươi.

Thiên ma Ba Tuần và quyến thuộc mặt mày tái mét run sợ quỳ bạch Phật – Bạch đức Thế Tôn, bọn con ngu muội, bày kế dối ngài xin ngài hoan hỉ tha tội cho bọn con. Bọn con không dám làm nữa. Nay con được nghe phương pháp sống lâu, thần chú bảo hộ hài nhi, con xin phát nguyện, từ đây về sau, bất cứ chỗ nào đọc tụng biên chép kinh này, con xin ủng hộ, xua đuổi ma quái không được đến đó phá hoại. Giả sử người tội trong địa ngục, chỉ trong giây lát nhớ nghĩ kinh này, con dùng thần lực, lấy nước biển cả, tưới đổ người tội, khiến các địa ngục biến thành ao sen.
Lại có Phi Đằng La Sát cầm đầu chúng La Sát ăn các thai nhi từ trên hư không xuống đi nhiễu Phật ngàn vòng, quỳ lạy bạch rằng: Bạch Thế Tôn, con từ vô lượng kiếp lại đây phải chịu làm thân la sát, nên bà con họ hàng nhiều như cát sông Hằng, ai ai cũng bị đói khát dày vò, món ăn duy nhất là, ở khắp mọi nơi, chỉ có thai nhi và máu mủ của các bà mẹ lúc sanh, hay chờ khi trai gái giao hợp thì hút tinh uống máu, khiến không có thai. Hoặc trong tử cung, con ra vào tự tại, giết hại thai nhi, uống máu ăn thịt, hoặc hài nhi sanh được bảy ngày, bọn con theo dõi giết hại. Khi các trẻ thơ lớn lên mười tuổi, bà con họ hàng bọn con, tạo ra các côn trùng cực độc, chui vào bụng chúng, ăn tim đục phổi, phá thận khoét gan, hút tinh uống máu, gây đủ thứ bệnh tiêu chảy, ói mửa, da dẻ vàng khè, bụng to, tay chân phù thủng, dần dần phải chết. Hôm nay bọn con nghe Phật giảng dạy phương pháp sống lâu, diệt sạch tội ác, bảo hộ hài nhi, mong đức Thế Tôn ra lệnh cho bà con họ hàng bọn con cho dù đói khát không được giết hại thai nhi để ăn thịt uống máu.

Đức Phật bảo, này các La sát, các ngươi thọ Tam quy ngũ giới, nhờ phước báu đó lìa bỏ thân La sát, sanh lên trời hưởng sự vui sướng.

Phật dạy đại chúng, nếu có em bé nào, ốm yếu bệnh hoạn, thì cha mẹ lấy sữa của mình vẩy vẩy lên trời thí cho bọn La sát và phải một lòng tụng kinh này, biên chép ấn tống, trì chú giữ gìn thai nhi, bệnh hoạn ốm đau, liền được dứt trừ.
Bấy giờ cả chúng La Sát lòng rất vui mừng cùng nhau bạch Phật, bạch đức Thế Tôn, họ hàng chúng con được sanh lên trời, xin thề không dám làm hại thai nhi, cho dù bọn con ăn hòn sắt nóng, trọn đời không ăn thịt uống máu thai nhi.

Sau khi Phật diệt độ, nếu có ai đọc tụng, biên chép, ấn tống, giảng dạy kinh này… nếu có kẻ xấu ác, hay ác ma quỉ dữ, nói lén dèm pha các vị đó, hay giết hại thai nhi, bọn con cầm chày kim cang bảo vệ họ, khiến cho bọn ác ma quỉ dữ không có thể lộng hành.

Bấy giờ các vua của chư thiên, tất cả vua của loài rồng, tất cả vua của loài Dạ Xoa, vua A Tu La, vua Ca Lầu La, vua Khẩn Na La, vua Ma Hầu La Già, vua Bệ Lệ Đa, vua Tỳ Xá Già, vua Phú Đơn Na, cho đến Ca Tra Phú Đơn Na v.v…tất cả các vua và họ hàng bà con của họ chấp tay cung kính lạy dưới chân Phật và cùng bạch: Bạch đức Thế Tôn, từ đây về sau nơi nơi chốn chốn, bất cứ có vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thiện nam, tín nữ nào đọc tụng kinh này, hoặc biên chép, ấn tống thì chúng con thường theo bảo hộ, xua đuổi ác ma quỉ dữ.

Nếu có ác ma quỉ dữ gây phiền phức và làm khổ chúng sanh, nên tắm rửa sạch sẽ, một lòng biên chép và đọc tụng kinh này, chúng con ngăn cấm, chận đứng, loài ác ma quỉ dữ này. Không cho chúng làm tổn hại và gây ra sự chết chóc thình lình.

Bấy giờ trời Lao Cố Địa từ chỗ ngồi đứng lên cung kính bạch Phật, bạch đức Thế Tôn, nếu hàng đệ tử của ngài đọc tụng kinh Trường Thọ Diệt Tội và Thần Chú Bảo Hộ Hài Nhi này, thì chúng con khiến đất nảy sanh các thứ thơm ngon cho người đó, khiến cho thân thể họ được nhiều lợi ích và được sống lâu.

Chúng con dùng đủ thứ vàng bạc, châu báu, tư trang, lúa gạo, hoa quả cung phụng cho người có tín tâm, không để cho họ thiếu thốn, thân được yên ổn, không lo không sầu, tâm thường an lạc, được ruộng phước tốt, và khiến ác ma quỉ dử, không cắt đứt mạng sống của người ấy.

Nếu hài nhi sanh ra bảy ngày chúng con khiến địa thần lui tới bảo hộ, không cho hài nhi bị chết.

Bấy giờ, vị thần Kim Cang Lực Sĩ, quỳ bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn, ngài giảng dạy kinh Diệt Tội Trường Thọ và Thần Chú Bảo Hộ Hài Nhi xong, các nhà thí chủ và các họ hàng bà con ai ai cũng phát tâm giữ gìn, đọc tụng, biên chép ấn tống kinh này, cung cấp mọi thứ cần dùng, không để thiếu thốn.

Con nghe đại đức Bà Già Bà giảng dạy kiết tường chương cú Đại Thần Lực chú, nếu có chúng sanh nào chỉ một lần nghe được thần chú này thì trăm kiếp ngàn đời, không bị chết yểu, không bệnh khổ, được sống lâu. Tuy có bốn ma (29) nhưng không gây phiền muộn, thêm phước thêm thọ, không già không chết, không lên không xuống. Bất cứ ai nếu bị khổ vì bệnh tật lo lắng bồn chồn, chỉ một lần thoáng qua tai, thì được an lạc, không bị ác ma quỉ dữ cắt đứt mạng sống. Thần chú có mười bảy câu sau đây:

Đa địa da tha
Chiên đạt lợi
Chiên đạt ra tỳ để
Chiên đạt ra ma hồng
Chiên đạt ra bạt đế
Chiên đạt ra bất lê
Chiên đạt ra xà di
Chiên đạt ra đế lệ
Chiên đạt phê duệ
Chiên đột lân
Chiên đạt ra bà ra xí
Chiên đạt ra vật đa lệ
Chiên đạt ra bà địa di
Chiên đạt ra bà duệ
Chiên đạt ra khư để
Chiên đạt ra lư kỷ
Tát bà ha.

Phật dạy tốt lắm! Tốt lắm! Hôm nay con nói thần chú: Kiết Tường Chương Cú Đại Thần Chú, bảo hộ trẻ thơ, con là người hướng dẫn cho tất cả chúng sanh.

Này Văn Thù Sư Lợi, con nên biết, thần chú này chư Phật quá khứ đã giảng dạy, nên gìn giữ và truyền bá mọi nơi, đem lại nhiều lợi ích cho trời người như là: được sống lâu, trừ sạch được các kiến chấp sai lầm, những việc làm dơ bẩn, thường bảo vệ những ai đọc kinh này.

Bấy giờ Phật dạy: Này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác này, có nhiều Tỳ kheo phá giới, gần gũi với Tỳ kheo ni, Sa di, gái góa, gái trinh… nấu rượu ăn thịt, lòng dâm hừng hẩy … mua đi bán lại, không còn xấu hổ, làm những chuyện nhơ nhớp … bị các hàng cư sĩ chê bai, chê bai cả chánh pháp. Khác nào cây dừa cắt ngọn – những người như thế chẳng phải đệ tử Ta vì đã phạm vào ngũ nghịch tội, là bà con họ hàng với bọn ma ác quỉ dữ.
Những hạng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni này, trong đời này bị quả báo chết non, nếu biết ăn năn sám hối, thề không dám làm nữa, đọc tụng kinh này, biên chép ấn tống, thì được sống lâu.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, nếu có Bồ Tát, chê bai người khác, không tin kinh điển Đại thừa phương đẳng, không chịu khó dạy dỗ chúng sanh, bo bo khen mình, đây là loại giả danh Bồ Tát, chỉ làm bạn với bọn ma ác quỉ dữ.

Với một lòng tha thiết đọc tụng kinh này, biên chép ấn tống, chắc chắn sẽ được thường trú pháp thân.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, nếu có vị vua nào giết cha hại mẹ, chém giết bà con họ hàng, không theo phép tắc công minh, chiêu mộ binh lính, đánh phá nước khác, tôi trung thần hiền đều bị giết sạch, ham muốn xác thịt, lồng lộng tìm kiếm, đập tháp đốt chùa – xé kinh phá tượng … trái đạo lý vua dân.

Vì vua vô đạo nên nhân dân đói khát, mưa gió lụt lội liên tục, đủ thứ bệnh dịch xảy ra khắp nơi hao của tốn tiền, người chết đau khổ… nếu biết ăn năn sám hối đọc tụng kinh này, biên chép ấn tống, sửa đổi luật lệ cho thật công minh, hy vọng sống lâu, nếu không sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục A Tỳ.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, nếu có bộ trưởng, tỉnh trưởng, quận trưởng… được hưởng bổng lộc, nhưng lòng không biết xấu hổ, nghe lời xiểm nịnh, giết hại những người thanh liêm, lừa trên gạt dưới, tịch thu tiền bạc nhân dân, bức hiếp lê dân bá tánh, mua quan bán chức, lương lẹo đủ trò, làm cho nước nghèo dân khổ, đập tháp đốt chùa, xé kinh phá tượng… trái đạo lý quan dân.

Vị quan xiểm nịnh, đời này chết non đọa vào địa ngục A Tỳ, nếu biết ăn năn sám hối, đọc tụng kinh này, biên chép ấn tống, giúp vua thương dân thì được sống lâu, ngàn đời được bổng lộc.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, nếu có Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào tin theo tà ma ngoại đạo, khinh chê kinh điển Đại thừa, không tin chánh pháp, giả sử họ có trăm ngàn lượng vàng, nhưng lòng keo kiết bủn xỉn, ham tiền ham bạc, không biết làm phước giúp người nghèo khổ, không ấn tống kinh điển, không đọc tụng lời Phật dạy, thì làm sao thoát khỏi quỉ vô thường, khổ dưới sáu nẻo ba đường, nhà cửa lỡ sập, bếp hư chim dữ hiện, rắn dữ vào nhà, chó điên tru tréo, chuột bọ sâu rít, tranh nhau vào nhà, trăm điều ma quái, tà ma ác quỉ, vì thấy càc điều không tốt, nên sanh buồn bả ưu sầu, do buồn bả ưu sầu nên không an lạc, do không an lạc nên mới chết sớm. Nếu như biết biên chép ấn tống, truyền bá cho mọi người cùng nhau đọc tụng, nhờ phước báu đó, trăm điều quái dị biến mất và được sống lâu.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, khi con cháu lớn lên, ông bà cha mẹ rất lo âu, lâu ngày thành tâm bệnh. Tại sao vậy? Vì con trai lớn lên phải đi lính đánh giặc, trăm đứa đi vài đứa còn sống, đây là luật pháp bắt buộc làm sao tránh được. Còn con gái lớn lên dựng vợ gả chồng, lăn nhăn mèo chuột nên bị khinh chê. Ông bà cha mẹ càng khổ đau, do khổ đau nên sanh đủ bệnh, do bị bệnh nên phải chết non. Nếu biết biên chép ấn tống, đọc tụng thọ trì kinh này, nhờ công đức này mà bà con họ hàng hòa thuận, tâm bệnh dứt trừ.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, tất cả mọi loài chẳng thương xót nhau, phân thây xẻ thịt, chém giết bừa bãi, ăn tươi nuốt sống, nhân lúc chém giết tổn hại thai nhi, khác gì giết cha hại mẹ, dày xéo bà con. Do vậy, nên bị chết sớm. Nhơn lúc vợ chồng chung chăn chung gối, bị ác La Sát hút tinh uống máu, tổn hại thai nhi nên không con không cháu.

Nếu biên chép ấn tống, đọc tụng thọ trì kinh này, nhờ công đức này mà thoát mọi đau khổ.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, tất cả chúng sanh không biết đời trước của mình, nay được thân người, lao đầu vào những cuộc ăn chơi – cậy quyền ỷ thế, chê bai người khác, dùng mọi mánh khoé, bức ép dân lành, không tin Tam Bảo, khinh chê đại thừa, cống cao ngã mạn. Những người như vậy, đời này chết non. Nếu biết một lòng ăn năn chừa bỏ, sửa đổi tâm tánh, biên chép ấn tống, đọc tụng thọ trì kinh này, nhờ việc làm tốt đẹp này mà các bệnh tật đều được lành mạnh, chết non chết oan đều được tiêu trừ, lại được sống lâu an lạc giàu có.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, tất cả mọi người hoặc nghe theo lệnh vua, hoặc cha mẹ đi sinh sống xứ người buôn bán làm ăn, lấy lợi cầu lời, chứa chất vàng bạc, ỷ nhiều tiền bạc hống hách kiêu căng, giam cầm trái phép, la cà quán rượu làng chơi, bạn bè với kẻ ngu dốt, quên hẳn lệnh vua, bỏ lời cha mẹ dạy, chè chén say sưa làng chơi không thiếu, mất thân hại mạng. Cho dù vàng bạc đầy kho, cắm đầu rượu thịt, không theo đạo lý làm người. Sau khi bị giặc cướp trấn lột tài sản, trắng tay khổ sở.

Nếu biết biên chép ấn tống kinh này, phát sanh lòng tốt, thương xót mọi loài, cứu giúp tất cả thì chính ngay chỗ ở không còn tà ma yêu quái, lòng sanh vui vẻ, cọp beo thú dữ tìm đường chạy trốn, thân tâm ung dung ngày đêm an ổn, lại thêm giàu có, sống lâu trăm tuổi là nhờ các việc tốt trên.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, tất cả mọi loài ăn ở với nhau, cấu xé giành giựt, nên chết đọa vào địa ngục, mãn kiếp địa ngục sanh vào loài ngạ quỷ (30) súc sanh, mãn kiếp ngạ quỷ súc sanh được sanh làm người, lại đui què sứt mẻ, câm ngọng tai điếc, lưng gù, chân quẹo, nếu sanh thân gái, xấu xí dốt nát, không biết chánh pháp, nếu sanh thân trai, thô kệch cộc cằn, bụng trống lòng không, làm sao biết được kinh này, u sầu khổ sở trở thành tâm bệnh, nên chết thương tâm. Nếu được bạn tốt khuyến khích biên chép ấn tống kinh này, một lòng một dạ đọc tụng thọ trì, công đức vô lượng, nên ác quả xấu từ từ hết hẳn, do vậy nên được sống lâu.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, nếu có chúng sanh sau khi qua đời từ bảy ngày đến bốn mươi chín ngày, con cháu họ hàng biết kính Phật trọng Tăng, cúng dường Tam Bảo, giúp đỡ kẻ nghèo khó, nếu được bảy phần công đức thì hương linh chỉ hưởng được một phần. Thu xếp chuyện nhà, biên chép ấn tống kinh này, mỗi tuần thất cúng dường Tam Bảo, cứu giúp những kẻ thiếu ăn thiếu mặc, công đức như cát sông Hằng, người còn được sống lâu, xa lìa ba đường sáu nẽo, kẻ mất cũng được sanh về cõi Phật, cuộc sống an nhàn.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, chúng sanh phần nhiều làm năm tội lớn, thiếu hẳn tình thương, bỏ rơi cha mẹ lúc tuổi về già, bỏ vợ đánh con, bà con họ hàng chẳng thèm ghé mắt.

Bấy giờ vua trời cai trị, rảo quanh thiên hạ, bà con họ hàng, kèn trống cổ xí, rợp trời đưa đón, đến quả đất này, thấy các chúng sanh bịnh khổ hiểm nghèo, vua trời cai trị ra tay cứu giúp, trừ ma diệt quỷ liền được an vui.

Nếu có hạng người ghét cha bỏ mẹ, ganh ghét tranh giành làm nhiều điều xấu, hoặc có kẻ bị ma dựa kiếm ăn, hôi thối xông đầy, hoặc có kẻ bịnh nặng, lúc nóng lúc lạnh, ngồi đi không nổi, hoặc có kẻ trên ói dưới chảy, nằm lả cả người, hoặc có kẻ bị tà ma quỷ độc lúc ra lúc vô, thân hình nóng rang, cười cười khóc khóc…

Nếu biết biên chép ấn tống kinh này, một lòng kính Phật trọng Tăng, hương hoa cúng dường, nhờ phước báo này mà mọi bịnh tật ở trên đều được dứt trừ, lại thêm sống lâu.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, chúng sanh phước mỏng tội dày, quả đất đến thời kỳ hủy hoại, mặt trời xuất hiện, nóng bức cháy sáng, kẻ cai trị mất hết tình người, môi trường sinh thái dơ dáy tột cùng, rừng khô sông cạn, lúa đậu khô héo, hoa quả mất mùa.

Nếu vua hiểu đạo, tất cả mọi người cùng nhau biên chép ấn tống đọc tụng kinh này, bấy giờ trời rồng Nan Đà trời rồng Bạt Nan Đà.v.v… từ biển lớn làm cho mưa thuận gió hòa, rừng xanh sông nước, hoa quả sum xuê, lúa thóc tràn đầy, dân chúng giàu có… và được sống lâu.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, những người buôn bán đong thiếu cân non, đổi xấu làm tốt, gạt gẩm kiếm tiền, vì những tội ấy, nên khi qua đời đọa vào địa ngục sanh vào loài súc sanh như: ngựa lừa voi heo, chó mèo chim chuột, sâu dòi trùng kiến… nếu được vị đại Bồ Tát đem lòng thương tưởng, chuyên đọc kinh này, chỉ cần một lần thoáng qua lổ tai, xả bỏ loài súc sanh, được sanh lên trời, hưởng lạc an vui.

Đã là Phật tử mà không giảng giải đọc tụng kinh này, thật đáng buồn thay!

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, chúng sanh phần nhiều cống cao ngạo mạn, không tin kinh này, chê bai chánh pháp. Nếu ở đâu giảng giải kinh luật, không chịu khó đến nghe, không chịu tu học, do vậy sau khi chết liền đọa vào địa ngục chịu khổ lâu dài. Nếu có chỗ nào giảng giải kinh này mau mau đến nghe kêu gọi mọi người cùng nhau đến nghe, sau đó tìm nơi sạch sẽ, tổ chức đạo tràng lớn nhỏ tùy nghi, nhờ vậy thoát khỏi u đồ, xa lìa ác đạo.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, nếu có người nào, khi đang mang thai, giết hại sinh vật, ăn hột vịt lộn, uống máu dê heo… không chút tình thương chắc chắn sanh đẻ đớn đau, mổ bụng lấy con, đời này chết non.

Nếu gặp bạn tốt khuyên biên chép kinh này, khuyên làm việc tốt, giúp người cứu vật, đến khi sanh đẻ, mẹ tròn con vuông, con trai con gái tùy ý mình muốn.

Bấy giờ, Phật bảo Văn Thù Sư Lợi, hôm nay Ta giảng giải phương pháp sống lâu, diệt sạch nghiệp chướng, mười hai duyên khí, tính giác chúng sanh, nhờ chư Phật đời trước giảng dạy.

Nếu ai một lòng đọc tụng biên chép ấn tống kinh này, y theo lời Phật tu hành, gặt hái phước báo không lường, sống lâu trăm tuổi, khi xả báo thân này thì nhẹ nhàng ra đi không bệnh không khổ.

Nhờ giác tính giác nên tâm kiên định ví như kim cang không hư, không hoại, y như pháp thân chư Phật trong sạch vắng lặng, niệm niệm bền chắt.

Có hai vị đại Bồ Tát: Quán Thế Âm và Đại Thế Chí nương mây năm màu, cỡi voi trắng sáu ngà, tay cầm hoa sen đón rước người niệm Phật, được sanh về cõi tịnh độ, an vui tự tại, dứt bặt tám nạn.

Này Văn Thù nên biết, chúng sanh phần nhiều ngu dốt tối tăm, không hiểu không biết, đời sống ngắn ngủi như tia lửa xẹt của đá chạm nhau, như bọt trôi sông, như tia chớp…

Trong sanh tử lo rầu sợ sệt
Trong sanh tử tham danh tham tiền
Trong sanh tử say sưa rượu thịt
Trong sanh tử ôm lòng ganh ghét
Trong sanh tử khổ đau triền miên.
Trôi nổi trên biển ái sông mê, ác quỷ vô thường đến bất cứ lúc nào, cho dù tiền kho bạc đụn, châu báu đầy nhà, nhưng không thể nào mua được mạng sống.

Chỉ có chư Phật và các vị Bồ tát ra vào sanh tử một cách ung dung tự tại.

Mọi người nên suy ngẫm, thân này do bốn chất hợp lại, như bốn con rắn độc, trong thân đủ loại vi khuẩn vi trùng cấu xé giành ăn với nhau, ba mươi bảy chất dơ nhớp thường chảy ra chín chỗ, hôi hám tanh tưởi, như con chó chết có gì đáng yêu quý.

Thân này như thành La Sát không có lâu dài, thoạt có thoạt không. Khi hơi thở không còn, một ngày hai ngày bị sình thối, năm ngày bầm tím phồng lên hôi thúi nồng nặc, cha mẹ vợ con không dám đến gần, một mình cô đơn đồng không hiu quạnh, tay chân rả rời, thận gan tim phổi, ruột già ruột non… là thức ăn của loài côn trùng.

Phân tích như vậy cái Ta ở đâu? Khi sống tiền kho bạc đụn, lúc chết có mang theo được không? Khi sống sử dụng tay chân đầu óc… lúc chết mỗi mỗi rã rời. Yêu mến vợ con, luyến tiếc tiền bạc, không chịu tu học thật uổng một đời làm thân người.

Bởi vậy bây giờ nên cố gắng biên chép ấn tống kinh này, thường xuyên đọc tụng, y đó tu hành, hiểu sâu mười hai duyên khởi, truyền bá mọi nơi, cúng dường làm phước, niệm niệm rực sáng, chứng nhập Bồ đề tâm ngay đời hiện tại, ngại gì sanh tử, thật xứng đáng là Phật tử.

Phật giảng giải kinh này xong, tất cả đại chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời rồng dạ xoa, thiên long bát bộ, loài người và không phải loài người, vua Ba Tư Nặc, bà con họ hàng quan lớn quan nhỏ nhiều như cát sông Hằng, đều chứng nhập Bồ đề tâm, vô sanh pháp nhẫn, thật chưa từng thấy.

Tất cả một lòng cúi đầu lạy Phật hoan hỷ lui về.

Phật Thuyết Kinh Diệt Tội Trường Thọ, Dứt Sạch Nghiệp Chướng, Thần Chú Bảo Vệ Hài Nhi.

Tỳ kheo Không Trú cẩn dịch

Lời Bạt

Đức Phật thuyết giảng kinh Diệt Tội Trường Thọ đã trên 25 thế kỷ. Nhưng nhân duyên khiến Ngài thuyết giảng kinh này, tức là hoàn cảnh nghiệt ngã của người nữ Phật tử Điên Đảo trong kinh, lại đã xảy ra từ vô số kiếp về trước cũng như vẫn còn xảy ra trong xã hội con người bây giờ và mãi mãi về sau. Từ đó thấy rằng không phải chỉ có một người nữ Phật tử Điên Đảo mà đã và sẽ còn có vô số người phụ nữ như vậy, dù là Phật tử hay không Phật tử. Phong tục khắc khe của xã hội cũng như hoản cảnh nghiệt ngã của cá nhân và gia đình đã khiến những người phụ nữ phải hủy bỏ cái bào thai hoặc thai nhi của mình dù biết đó là hành vi tội lỗi về mặt đạo đức xã hội và là hành vi tạo ác nghiệp về mặt nghiệp báo. Nhưng trên hết, ngay trong cái tên Điên Đảo, Đức Phật đã hàm ý đó là những hành vi, xuất phát từ vô minh, từ tham ái của con người vốn đã sanh ra trong cõi Dục giới này. Chính từ sự quán chiếu đó, Đức Phật đã không dừng lại ở chỗ tội lỗi hay nghiệp báo và những sự trừng phạt tương ứng trong những cảnh giới địa ngục mà những người phụ nữ như Điên Đảo phải lãnh thọ. Ngài chú trọng và nhấn mạnh ở chỗ phải biết thành tâm sám hối để giải nghiệp và an lạc. Những sự trừng phạt trong cảnh giới địa ngục vô gián có thể được hiểu như những ẩn dụ cho những cực hình vô cùng vô tận mà người phụ nữ lâm vào những hoàn cảnh này phải gánh chịu về mặt thể chất cũng như tinh thần, từ luật pháp, tập tục của xã hội và gia đình và ngay cả từ tâm trạng dày vò, đau khổ triền miên của chính mình. Làm thế nào để giải nghiệp và an lạc là mục đích của Kinh Diệt Tội Trường Thọ.

Trong những năm hành đạo tại chùa Quang Minh ở Chicago, Đại Đức Thích Minh Chí, hiện nay là Giám viện Phật Học Viện Quốc Tế ở California, đã từng nghe biết nhiều hoàn cảnh thương tâm và đã từng làm lễ cầu siêu cho các thai nhi, tức là những hương linh chưa sanh, chưa có tên. Thầy rất xúc động trước những hoàn cảnh thương tâm và đau khổ như vậy nên muốn tìm một bản kinh nào thuyết giảng về những cảnh ngộ như thế này để giúp những ai muốn thành tâm sám hối để giải nghiệp và được giải thoát, an lạc. Đó là nguyên nhân khiến quyển kinh này được dịch ra tiếng Việt và phổ biến.

Cũng như nội dung của tất cả những kinh điển khác, chúng ta áp dụng lời Phật dạy như dùng bè qua sông, đừng chấp bè lau, bè sậy, bè chuối… mà chỉ luôn luôn tâm niệm rằng: phải qua mau, qua mau, qua đến bờ bên kia.

Chắc chắn không sao tránh khỏi lỗi lầm trong lúc dịch, kính mong các bậc cao minh chỉ giáo cho.

Trân trọng,
Tỳ kheo Không Trú

Chú Thích

(1) Kỳ Xà Quật = Linh Thứu Sơn = núi Kên Kên
Từ Bồ Đề Đạo Tràng đến núi này 91 Km. Trên đỉnh núi, đá chồng lên nhau nhìn giống như đầu của chim Kên Kên, Nơi đây, đức Phật giảng nhiều kinh Đại Thừa.

(2) Thiên Long Bát Bộ
Tám bộ chúng ủng hộ và giữ gìn Phật pháp gồm: Thiên, Long, Dạ Xoa, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Càn Thát Bà và Ma Hầu La Dà. Trong tám bộ chúng này Thiên – Long là thượng thủ, cho nên nêu hai chúng đại diện cho cả tám chúng. Cũng có khi gọi: Thiên Long Dạ Xoa.

(3) Phi Nhân
Không thuộc loài người. Theo kinh luật chỉ chung cho các loài như: Trời, Rồng, Dạ Xoa, Địa ngục, v.v….

(4) Cõi trời Phi Phi Tưởng
Còn gọi là Hữu Đảnh Thiên, tầng trời cao nhất của cõi Vô Sắc. Tầng trời này chuyên thiền định “Phi tưởng phi phi tưởng”, tưởng thô đã chấm dứt nhưng còn tưởng vi tế.. Theo kinh A-Hàm, tuổi thọ của cõi trời này là 84,000 kiếp.

(5) Địạ ngục A Tỳ
Còn gọi là địa ngục Vô Gián, tức là không bao giờ ngừng nghỉ, tội nhân vào trong địa ngục này bị hành hạ không phút nào ngừng mãi cho đến khi được ra khỏi. Thêm nữa, thân hình của mỗi tội nhân biến đầy khắp cả ngục, vô số tội nhân cũng đều như vậy. Nếu khi còn sống, giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu và phá hòa hợp Tăng, sau khi trút hơi thở thì bị đọa vào địa ngục này. (Xem thêm kinh Địa Tạng)

(6) Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Trung Hoa dịch: Diệu Đức hay Diệu Cát Tường. Đây là vị Bồ Tát cỡi con sư tử màu xanh, hầu bên trái Phật Thích Ca Mâu Ni, bên phải là ngài Phổ Hiền Bồ Tát cỡi voi sáu ngà màu trắng. Ngài chỉ xuất hiện trong kinh điển Đại thừa, có trí tuệ siêu việt, thường thay mặt thính chúng, đặt những câu hỏi lên đức Phật khi nghe đức Phật thuyết pháp. Trong kinh Bảo Tích thứ 60 ghi, đương lai ngài sẽ thành Phật hiệu là Phổ Thiện Như Lai, thế giới tên Ly Trần Cấu Tâm.

(7) Sáu đường
Khi còn sống, chúng sanh đã nói, suy nghĩ, làm những thiện nghiệp hay ác nghiệp khác nhau. Sau khi chết tùy theo nghiệp lực mà đầu thai vào sáu cõi: 1- Trời, 2- Người, 3- A Tu La, 4- Ngạ Quỷ, 5- Súc Sanh, 6- Địa Ngục. Đến sáu cõi này bằng bốn hình thái khác nhau: bằng thai, bằng trứng, bằng biến hóa, bằng phân hóa.

(8) Thập Hiệu
Đây chính là mười hiệu của Phật. Tất cả chư Phật đều có 10 hiệu giống nhau. Danh hiệu cuối là Phật Thế Tôn tức là bậc giác ngộ hoàn toàn, được người đời tôn trọng cung kính. Nên Phật Thế Tôn là một hiệu.

(9) Ưu Bà Di
Trung Hoa dịch là cận sự nữ, là những người nữ, gần gũi chư Tăng Ni để tu học theo hạnh xuất thế. Là một trong bảy chúng đệ tử của Phật, đã quy y Tam Bảo và giữ gìn năm giới: 1- Không được sát sanh, 2- Không được trộm cắp, 3- Không được tà hạnh, 4- Không được nói dối, 5- Không được uống rượu và dùng những chất say sưa làm loạn tánh tình.

(10) Diêm Vương
Còn gọi là Thập điện Diêm Vương hay Diêm La Thập điện, chịu ảnh hưởng tư tưởng Vệ Đà, Ấn độ giáo, về sau chuyển thành tín ngưỡng của dân gian bình dân Việt Nam, Trung Quốc. Hình ảnh Thập điện Diêm vương hàm ý đạo lý Nhân quả. Nếu ai ăn ở hiền lành như thương mẹ, giúp cha, đối xử tốt với bạn bè, biết kính trên nhường dưới v.v… sau khi chết được đầu thai về cõi lành, nơi đây được an vui hạnh phúc. Còn ai bất hiếu cha mẹ, phản thầy gạt bạn, lăn nhăn tình ái, cờ bạc rượu chè v.v… sẽ bị đoạ vào địa ngục, tùy theo nặng nhẹ, bị Thập điện Diêm vương xét xử.

(11) Năm trược
Năm thứ khó chịu, hôi hám, nhận thức sai lầm, đau khổ về thân và tâm. 1- Kiếp trược, 2- Kiến trược, 3- Phiền não trược, 4- Chúng sanh trược, 5- Mạng trược.

(12) Thiên Ma Ba Tuần
Tên của một loài ma cực ác, thường theo dõi Phật và đệ tử của Phật để tìm cơ hội nhiễu loạn thân tâm, chướng ngại pháp lành, ngăn cản người tu tập. Đây là chúa tể từng trời thứ sáu ở cõi Dục.

(13) Năm ấm
Năm ấm gồm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc lại có bốn thứ: đất, nước, gió, lửa. Bốn yếu tố này có hai tính chất: thô và tế. Đấy là những yếu tố thuộc về vật chất. Thọ, tưởng, hành, thức là bốn yếu tố thuộc về tinh thần. Mỗi chúng sanh đều được năm ấm này tạo nên và theo nghiệp lực có những hình thái khác nhau và tâm tính khác nhau.

(14) Bốn rắn
Chỉ cho bốn đại: Đất, nước, gió, lửa. Theo kinh Tối Thắng Vương, thân thể chúng sanh do năm yếu tố hợp lại mà thành. Yếu tố đầu tiên là Sắc. Sắc gồm có bốn yếu tố là Đất, nước, gió. lửa. Khi đủ duyên thì tồn tại, khi hết duyên sẽ tan rã. Trong khi tồn tại cũng
“chống chọi” với nhau, tạo ra nhiều bệnh hoạn cho cơ thể. Chẳng khác nào bốn con rắn độc được nhốt chung trong một chuồn, tàn sát lẫn nhau.

(15) Ba độc
Chỉ cho tham sân và si. Đây là ba thứ phiền não có mặt khắp ba cõi và là thứ độc hại nhứt khó đoạn trừ, khiến chúng sanh đọa lạc tam đồ lục đạo.

(16) Lục tặc = sáu tên giặc
Chỉ cho sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu trần này là đối tượng của sáu căn: Mắt, tai, mũi. lưỡi, thân và ý. Sáu trần và sáu căn không phải là giặc, do ý thức tính toán, so đo, hơn thua, phải trái, thiện ác, tốt xấu… làm trở ngại hay thuận tiện trên đường tu của mình.

(17) Bồ Đề
Trung Hoa dịch: giác ngộ, trí tuệ. Do sự tu tập và đoạn trừ phiền não nên có nhiều loại Bồ đề khác nhau. Theo Luận Đại Trí Độ 53, có năm loại Bồ Đề: 1- Phát tâm bồ đề, 2- Phục tâm bồ đề, 3- Minh tâm bồ đề, 4- Xuất đáo bồ đề, 5- Vô thượng bồ đề. Theo Đại thừa nghĩa chương 18, có hai loại: 1- Phương tiện bồ đề, 2- Thanh tịnh bồ đề. Theo Thiên Thai tông có ba loại: 1- Thật tướng bồ đề, 2- Thật trí bồ đề, 3- Phương tiện bồ đề.

(18) A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
Trung Hoa dịch: Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trí tuệ của Phật bình đẳng đầy đủ và cao siêu nhất.

(19) Thường Lạc Ngã Tịnh
Đây là bốn đức của Niết Bàn. Khi còn phàm phu tu tập theo Tứ Niệm Xứ để đối trị điên đảo. 1- Quán thân bất tịnh, 2- Quán thọ thị khổ, 3- Quán tâm vô thường, 4- Quán pháp vô ngã. Khi chứng thánh quả A La Hán, bất tịnh trở thành tịnh, khổ thành lạc, vô thường thành thường, vô ngã thành ngã.

(20) Ba La Mật
Dịch nghĩa: Qua bờ bên kia, sự rốt ráo, sự giải thoát. Đây là Bồ Tát nguyện, Bồ Tát hạnh, Bồ Tát đạo, con đường quên mình chỉ vì người, mục đích cuối cùng đem lại sự an vui, hạnh phúc và giải thoát cho tất cả chúng sanh. Thoạt đầu gồm mười Ba la mật, về sau còn sáu: 1- Bố thí, 2- Trì giới, 3- Nhẫn nhục, 4- Tinh tấn, 5- Thiền định, 6- Trí tuệ, 7- Phương tiện, 8- Nguyện, 9- Lực, 10- Trí.

(21) Cây Đa la
Là loại cây chỉ có một thân, nếu bị chặt ngọn hay thân thì không nảy cành. Có quả, khi chín màu nâu ăn được. Chiều cao chừng 15 đến 20 mét.

(22) Bà La Môn
Là giai cấp cao nhất trong bốn giai cấp cổ đại ở Ấn Độ, họ tự cho mình là sanh ra từ miệng Phạm thiên, chuyên lo chuyện cúng tế, được quyền nhận lãnh phẩm vật hiến tặng.

(23) Trời Đế Thích
Do tu các hạnh bố thí, làm phước, giúp kẻ cùng khổ với lòng từ bi, sau khi chết được sanh lên cõi trời Đao Lợi. Vua của cõi trời Đao Lợi là trời Đế Thích hay còn gọi là Thích Đề Hoàn Nhơn. Trời Đế Thích là một trong mười hai vị trời khác ở phương Đông ủng hộ Phật pháp và hộ trì những ai tu hành. Khi đức Phật lên trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ là bà Ma Gia thì vua trời Đế Thích cầm lộng hầu Phật.

(24) Chiên Đà La
Cổ đại Ấn Độ có bốn giai cấp từ cao tới thấp: 1- Bà la môn, 2- Sát đế lợi, 3- Phệ xá, 4- Thủ đà la. Chiên đà la không được xếp hạng, đứng ngoài bốn giai cấp. Mỗi khi đi đâu phải tự gõ vào thanh gỗ để mọi người nghe âm thanh để tránh xa. Nghề chính của họ là hốt phân, cắt cổ gà vịt, mổ heo, trâu, dê cung cấp thịt cho các giai cấp trên. Nói chung là họ chỉ được làm và phải làm những nghề hạ tiện nhất trong xã hội. Đức Phật phủ nhận giai cấp, Ngài nói: “không thể có giai cấp trong dòng máu đều đỏ và giọt nước mắt đều mặn. Ai cũng có khả năng thành Phật”. Tư tưởng vĩ đại này làm nền tảng cho công cuộc cách mạng xã hội không tiền khoáng hậu.

(25) Nan đà long vương
Vị vua rồng tên là Nan đà. Vị này có bảy đầu, tính tình rất hung ác, về sau được Ngài Mục Kiền Liên hàng phục và hóa độ, là một trong tám đại long vương, anh em với Bạt Nan Đà long vương, nên hai vị này gọi chung với nhau là Nan đà, Bạt Nan đà long vương.

(26) Cõi trời Vô Sắc
Ở cõi trời này không có hình hài vật chất, chuyên tu Tứ vô sắc hay Vô sắc giới định. Do tu tập Không vô biên xứ, 2- Thức vô biên xứ, 3-Vô sở hữu xứ, 4- Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

(27) Vua Ba Tư Nặc
Quốc vương của nước Kiều Tát La ở Trung Ấn Độ thời bấy giờ. Thủ đô là Xá Vệ, là một trong hai cường quốc thời đức Phật tại thế. Ông sống cùng thời với đức Phật; sau khi được đức Phật hóa độ, ông trở thành đại thí chủ, đại hộ đạo cho đức Phật và Tăng đoàn.

(28) Lục Sư ngoại đạo
Sáu phái ngoại đạo cùng thời với đức Phật, họ có chủ trương khác nhau: 1- Hoài nghi ngoại đạo: chủ trương thánh quả không cần tu, trải qua một thời gian dài tự nhiên sẽ được. 2- Duy vật ngoại đạo: chủ trương không có nhân quả. 3- Tự nhiên ngoại đạo: chủ trương khổ vui giàu nghèo do tự nhiên sanh ra. 4- Không thiện ác ngoại đạo: chủ trương không thiện không ác, không nhân quả. 5- Không nhân không duyên ngoại đạo: chủ trương: đất, nước, gió, lửa, khổ, vui linh hồn riêng biệt nhau. 6- Lõa thể ngoại đạo: chủ trương khổ vui giàu sang đều do đời trước tạo ra..

(29) Bốn ma
Bốn ma này chia ra làm hai loại: 1- Nội ma gồm có: ngũ ấm ma, 2-Ngoại ma là chỉ cho ma vương và bà con quyến thuộc của ma vương ở cõi trời thứ sáu thuộc Dục giới gọi là Tha Hóa Tự Tại thiên. Chúng hay phá phách cản trở việc thiện và việc tu tập của chúng sanh.

(30) Ngạ quỉ
Một đường trong sáu đường: trời, người, A tu la, ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục. Ngạ quỉ nghĩa là quỉ chịu đói khát, do đời trước tạo nhiều nghiệp ác, thường là có liên quan đến tham lam keo kiệt. Theo kinh Chánh Pháp Niệm Xứ 16, có 36 loại ngạ quỉ. Trong kinh Nghiệp Báo Sai Biệt, có 10 thứ nghiệp khiến chúng sanh bị đọa loài ngạ quỉ: 1- Thân tạo nhiều nghiệp ác, 2- Miệng tạo nhiều nghiệp ác, 3- Ý tạo nhiều nghiệp ác, 4- Khởi lòng tham lam, 5- Khởi lòng ác tham, 6- Ghen tỵ, 7- Tà kiến, 8- Mến tiếc của cải lúc lâm chung, 9- Chết do đói, 10- Chết do khát.

(Bản Kinh này đã được kiểm tra chính tả và những lỗi sai sót trong khi đánh máy)

Đức Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni
Bản dịch của Dịch giả Thích Thiện Thông

Tôi nghe như vầy : Một thời Đức Phật, ở thành Vương Xá, trong núi Linh-thứu, với sự câu hội, một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, các Đại Bồ-tát, mười hai ngàn người, cùng tám bộ chúng, Trời, Rồng, quỷ thần, hạng nhân phi nhân, nghe Phật nói pháp.
Bấy giờ Đức Thế Tôn, từ trên gương mặt, phóng những ánh sáng, với trăm màu sắc, xanh, vàng, đỏ, trắng, trong mỗi màu có vô lượng hóa Phật, hay làm Phật sự, chẳng thể nghĩ bàn. Mỗi mỗi hóa Phật, đều có vô lượng Bồ-tát hóa hiện, ca ngợi Phật đức. Ánh sáng nhiệm mầu, khó thể đo lường, trên đến cõi trời Phi phi tưởng xứ, dưới hết chiếu đến địa ngục Vô gián. Ánh sáng lan khắp, tám muôn địa ngục, nơi nào cũng có. Chúng sanh trong ngục, gặp ánh sáng Phật, tự nhiên niệm Phật, đều được phương tiện, niệm Phật tam muội.
Khi ấy trong chúng, có bốn mươi chín Bồ-tát, vừa mới phát ý, muốn từ nơi Phật, cầu mạng trường thọ, nhưng họ không thể phát lời thưa hỏi.
Lúc đó, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, biết chỗ nghi ngờ của các vị kia, ngài liền đứng dậy, vén áo vai mặt, chắp tay hướng Phật và bạch lên rằng :
Kính bạch Thế Tôn ! Con thấy chúng sanh, có điều nghi ngờ, nay muốn thưa hỏi, xin Đức Như Lai, cho phép con nói.
Đức Thế Tôn dạy :
Lành thay ! Lành thay ! Văn Thù Sư Lợi, ông nghi điều gì, cứ tha hồ hỏi.
Ngài Văn Thù thưa :
Kính bạch Thế Tôn ! Tất cả chúng sanh, nơi biển sanh tử, tạo các nghiệp ác, kiếp này kiếp nọ, luân hồi sáu đường, dẫu được thân người, nhưng mắc quả báo, tuổi thọ ngắn ngủi, làm sao cho họ, được mạng lâu dài, diệt các nghiệp ác ? Cúi mong Thế Tôn, nói về phương pháp, tuổi thọ lâu dài.
Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi :
Lòng đại Từ bi của ông vô lượng, xót nghĩ đến những chúng sanh tội khổ, hay hỏi việc trên. Nếu Ta nói đủ, thì khắp chúng sanh, khó ai tin nhận.
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật lần nữa :
Kính bạch Thế Tôn ! Đấng Nhứt thiết trí, thầy của Trời người, che khắp chúng sanh, cha lành tất cả, vua trong các pháp, một tiếng của Ngài, diễn nói tất cả, cúi mong Thế Tôn, thương xót nói rộng.
Đức Phật mỉm cười, bảo khắp đại chúng :
Các vị lóng nghe ! Như Lai sẽ vì các vị mà nói.
Về đời quá khứ, có thế giới tên, Vô Cấu Thanh Tịnh, cõi đó có Phật, hiệu là Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, được vô lượng vô biên, các đại Bồ-tát, lúc nào cũng thường cung kính vây quanh. Trong pháp Phật ấy, có cận sự nữ tên là Điên Đảo, cô này nghe Phật xuất hiện nơi đời, muốn cầu xuất gia, buồn bã kêu khóc, bạch Đức Phật rằng :
Kính bạch Thế Tôn ! Con có nghiệp ác, muốn xin sám hối, cúi mong Thế Tôn, cho con nói rõ :
Con về trước kia, thân mang thai nghén, mới đủ tám tháng, cũng vì phép nhà, cho nên con chẳng ham muốn con cái, bèn uống thuốc độc, phá thai giết con, chỉ sanh đứa chết, đủ cả hình người. Có bậc triết giả đến bảo con rằng : “Nếu cố sẩy thai, người này hiện đời, mắc báo bệnh nặng, mạng sống ngắn ngủi, chết đọa A-tỳ, chịu khổ nào lớn”. Nay con suy nghĩ, rất sanh buồn sợ. Cúi xin Thế Tôn, đem sức Từ bi, vì con nói pháp, cho con xuất gia, để khỏi khổ ấy.
Lúc đó, Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến bảo nàng Điên Đảo :
Trên thế gian có năm thứ ác nặng, sám hối khó diệt. Những gì là năm ? Một là giết Cha, Hai là giết Mẹ, Ba là giết Thai, Bốn là làm cho thân Phật chảy máu, Năm là phá sự hòa hợp của Tăng.
Khi ấy, người nữ có tên Điên Đảo, kêu khóc nghẹn ngào, nước mắt như mưa, năm vóc gieo xuống, lăn lộn trước Phật, và bạch lên rằng:
Lạy Đức Thế Tôn, từ bi rộng lớn, cứu hộ tất cả, cúi xin Thế Tôn, thương xót nói pháp.
Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai bảo một lần nữa :
Nghiệp ác của ngươi, rồi sẽ sa đọa, địa ngục A-tỳ, không sao dừng ngớt. Trong địa ngục nóng, tạm gặp gió lạnh, tội nhân tạm mát, trong địa ngục lạnh, tạm gặp gió nóng, tội nhân tạm ấm. Địa ngục A-tỳ, không có điều đó, lửa trên suốt xuống, lửa dưới suốt lên, bốn bề vách sắt, trên đặt lưới sắt, bốn cửa Đông Tây, có lửa nghiệp mạnh, nếu chỉ một người, thân cũng đầy ngục, thân to lớn đến tám vạn do tuần, nếu đông nhiều người, cũng đều đầy ngục. Khắp thân tội nhân, có rắn sắt lớn, khổ độc của nó, hơn cả lửa mạnh, lại có chim sắt, mổ thịt tội nhân, hoặc có chó đồng, nhai thân tội nhân, ngục tốt đầu trâu, tay cầm binh khí, phát tiếng hung tợn, như tiếng sấm sét, bảo tội nhân rằng: “Người cố giết thai, phải chịu khổ này!”…Ta nếu nói sai, chẳng phải là Phật.
Nữ nhân Điên Đảo, nghe Phật nói rồi, té xỉu xuống đất, lần hồi tỉnh lại, tiếp bạch Phật rằng :
Kính bạch Thế Tôn ! Chỉ một mình con, chịu đau khổ này, hay chúng sanh nào, cũng chịu khổ ấy?
Phổ Quang Như Lai bảo với Điên Đảo :
Con ngươi trong thai, hình người đầy đủ, ở giữa hai nơi, ruột non ruột già, giống như địa ngục, bị hai tảng đá, đè ép thân thể. Nếu mẹ ăn nóng, như đại ngục lạnh, trọn ngày khổ đau. Ở trong vô minh, ngươi còn ác tâm, cố uống thuốc độc! Nghiệp ác của ngươi, tự đọa A-tỳ. Tội nhân địa ngục, chính ngươi đồng bọn.
Cô gái Điên Đảo, lại một lần nữa, khóc thưa Đức Phật :
– Con nghe người trí, có nói lời rằng : “Nếu tạo điều ác, gặp Phật và Tăng, sám hối liền diệt. Giả như chết rồi, vào các đại ngục, tạo chút ít phước, trở lại sanh thiên”. Ý ấy thế nào, xin vì con dạy.
Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai bảo Điên Đảo rằng :
Nếu có chúng sanh, tạo các tội nặng, gặp Phật hoặc Tăng, chí thành sám hối, không tạo lại nữa, tội được tiêu diệt. Giả sử mạng chung, vua Diêm Ma La, tra hỏi chưa định, mà những người sống, quyến thuộc kẻ mất, thỉnh Phật mời Tăng, trong vòng bảy ngày, chuyển đọc Kinh điển, Phương đẳng Đại thừa, đốt hương rải hoa, sẽ có Diêm sứ, kiểm lại thiện ác, cầm phan năm sắc, đến chỗ Diêm vương, trước sau phan đó, ca vịnh tán thán, phát tiếng vi diệu, hòa nhã thuận thiện, bảo Diêm vương rằng : “Người này chứa thiện”.
Hoặc nhiều người chết, nội trong bảy ngày, do lúc còn sống, tin theo tà đạo, nhận thức điên đảo, chẳng tin Phật pháp, Kinh điển Đại thừa, không lòng hiếu thảo, không tâm từ bi, sẽ có Diêm sứ, cầm lá phan đen, trước sau phan đó, vô số ác quỷ, báo Diêm vương rằng : “Kẻ này chứa ác”.
Đang lúc bấy giờ, Diêm La pháp vương, thấy lá tần phan, năm sắc đưa đến, lòng rất vui vẻ, lên tiếng xướng rằng : “Nguyện tội thân ta, cũng đồng người lành”. Ngay trong lúc ấy, giữa các địa ngục, biến thành suối trong, núi đao rừng kiếm, như hoa sen mọc, tất cả tội nhân, đều hưởng vui sướng. Nếu thấy phan đen, Diêm vương tức giận, tiếng ác rung chuyển, đem các tội nhân, giao mười tám ngục, hoặc lên cây gươm, hoặc vào núi đao, hoặc nằm giường sắt, hoặc ôm trụ đồng, trâu sắt cày bừa, xay, nghiền, mài, giã, một ngày một đêm, muôn lần chết sống, cho đến lần lượt, đọa ngục A-tỳ, chịu đau khổ lớn, kiếp này kiếp khác, không hề dừng nghỉ.
Khi Đức Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai nói chưa dứt lời, thì giữa hư không, có tiếng hung tợn, gọi lớn tiếng rằng : “Nữ nhân Điên Đảo! Người cố giết thai, mắc báo đoản mạng, ta là sứ quỷ, cố đến bắt ngươi !”.
Người nữ Điên Đảo, kinh ngạc buồn khóc, ôm chân Đức Phật, kêu cứu lên rằng :
Cúi xin Thế Tôn, vì con nói rộng, nhân duyên diệt tội, trong kho giáo pháp, của các Đức Phật, dầu chết con cũng sẽ làm xong nguyện.
Bấy giờ, Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai, dùng thần lực Phật, bảo quỷ sứ rằng :
Sát quỷ Vô thường! Nay ta muốn vì nữ nhân Điên Đảo, nói Kinh Diệt Tội, thọ mạng lâu dài, hãy đợi chốc lát, tự sẽ chứng biết.
Chánh Kiến Như Lai dạy bảo người nữ :
Người hãy lóng nghe! Ta sẽ vì ngươi, y cứ hàng ngàn Đức Phật quá khứ, nói Kinh Trường Thọ, là pháp bí yếu, của các Đức Phật, khiến cho bọn ngươi, lìa khỏi đường ác.
Điên Đảo nên biết ! Sát quỷ vô thường, lúc nào cũng thường, rình tìm bắt người, khó mong thoát khỏi. Dẫu có vô lượng, trăm ngàn vàng ngọc, lưu ly, xa cừ, xích châu, mã nào, mà đem chuộc mạng, cũng không thể được. Giả sử vua chúa, thái tử, quan lớn, trưởng giả v.v… cậy thế lực mình, nhưng rồi một khi, quỷ vô thường đến, cắt đứt mạng quý, không một người nào, có thể thoát khỏi. Điên Đảo nên biết! Chỉ một chữ Phật, mới có thể khỏi, cái khổ lớn này.
Hỡi này Điên Đảo! Trên đời có hai hạng người dõng mãnh, rất là hiếm có, như hoa Ưu-đàm, khó thể gặp gỡ. Một là hạng người không làm điều ác. Hai là có tội liền hay sám hối. Hai hạng như vậy, rất là hiếm có. Người đã dốc lòng, sám hối với Ta, Ta sẽ vì ngươi, nói Kinh Trường Thọ, khiến ngươi khỏi khổ, vì quỷ vô thường.
Điên Đảo nên biết ! Trong đời sau này, lúc năm trược loạn, nếu có chúng sanh, tạo năm tội nặng: Giết Cha, hại Mẹ, thuốc độc trục thai, phá tháp hủy chùa, đập đổ tượng Phật, phá hòa hợp Tăng. Những chúng sanh nào, tạo các tội lỗi, ngũ nghịch như thế, nếu luôn thọ trì, Kinh Trường Thọ này, biên chép đọc tụng, tự mình biên chép, vẫn được diệt tội, sanh về Phạm Thiên, huống gì nay người được thân thấy Ta.
Lành thay Điên Đảo ! Ngươi về vô lượng số kiếp xa xưa, gieo các căn lành, nay Ta nhân lời người khéo thưa hỏi, ân cần sám hối, tức được chuyển thành, pháp luân Vô thượng, hay độ vô biên, biển khổ sống chết, có thể chiến đấu, với ma Ba Tuần, có thế xô ngả, tràng phan dựng lập, của ma Ba Tuần. Ngươi hãy nghe kỹ, Ta sẽ nương theo, chư Phật quá khứ, nói về giáo pháp, Mười hai nhân duyên.
Vô minh duyên Hành, Hành duyên cho Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên cho Thọ, Thọ duyên cho Ái, Ái duyên cho Thủ, Thủ duyên cho Hữu, Hữu duyên cho Sanh, Sanh duyên Lão tử, ưu bi khổ nào…
Nếu Vô minh diệt, ngay đó Hành diệt, Hành diệt tức Thức diệt. Thức diệt tức Danh sắc diệt. Danh sắc diệt tức Lục nhập diệt. Lục nhập diệt tức Xúc diệt, Xúc diệt tức Thọ diệt, Thọ diệt tức Ái diệt, Ái diệt tức Thủ diệt. Thủ diệt tức Hữu diệt. Hữu diệt tức Sanh diệt. Sanh diệt tức Lão tử, ưu bi khổ não diệt.
Điên Đảo nên biết! Tất cả chúng sanh, vì chẳng nhận ra, mười hai nhân duyên, do đó trôi lăn, trong biến sanh tử. Nếu có người nào, nhận ra diệu lý, mười hai nhân duyên, chính là thấy Pháp, thấy Pháp cũng chính là thấy Đức Phật, thấy Phật chính là thấy được Phật tánh. Tại sao vậy?
Bởi vì chư Phật, lấy đó làm tánh. Nay ngươi được nghe, Ta nói pháp mười hai nhân duyên đây, là ngươi đã được, Phật tánh thanh tịnh, kham làm pháp khí. Ta sẽ vì ngươi, nói đạo Nhứt thừa, ngươi hãy tư duy, giữ gìn nhứt niệm. Nhứt niệm là nghĩa của tâm Bồ-đề, và tâm Bồ-đề, gọi là Đại thừa, chư Phật Bồ-tát, vì chúng sanh mà phân biệt nói ba, ngươi hãy từng niệm, thường siêng giữ gìn, tâm Bồ-đề ấy, chớ để quên mất.
Giả sử có các rắn độc bốn đại, quỷ dữ năm ấm, ba độc tham sân si, giặc cướp sáu nhập, tất cả các ma, tìm đến khuấy nhiễu, chẳng thể biến đổi tâm Bồ-đề này. Nhân vì được tâm Bồ-đề như thế, mà thân như Kim cang, tâm như hư không, không gì trừ ngại, chẳng thể hư hỏng. Do chẳng hư hỏng, cho nên liền được, vô thượng Bồ-đề, sẵn đủ bốn đức, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, bèn hay xa lìa, sát quỷ vô thường, cùng những nổi khổ, sanh, già, bệnh chết, hoặc các địa ngục…
Khi Đức Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai ở giữa đại chúng, nói pháp này thì trong khoảng không gian, sứ quỷ vô thường, nói lên lời rằng: “Con nghe Đức Phật, nói giáo pháp này, địa ngục thanh tịnh, biến thành ao sen. Nay con hiện bỏ cảnh giới sứ quỷ”. Quỷ lại nói thêm : “Hỡi này Điên Đảo ! Khi ngươi đắc đạo, xin tế độ tôi”.
Bấy giờ, Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến lại bảo cô gái có tên Điên Đảo :
Ta đã vì ngươi, nói về mười hai nhân duyên xong rồi, lại vì ngươi nói sáu Ba-la-mật. Sáu Ba-la-mật là: Trí tuệ Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Bố thí Ba-la-mật, Sáu Ba-la-mật này, ngươi nên thọ trì.
Lại vì ngươi nói bài kệ thành Phật, của các Đức Phật về thời quá khứ, bài kệ đó là :
Các hành đều vô thường,
Vì là pháp sanh diệt,
Sanh diệt nếu diệt rồi,
Tịch diệt là an vui. Ngay trong lúc ấy, nữ nhân Điên Đảo, nghe pháp vui mừng, tâm bừng sáng lặng, tỉnh ngộ tỏ rõ. Do thần lực Phật, bèn bay lên không, cao hàng trăm thước, an tâm lặng rồi.
Bấy giờ, có một vị Bà-la-môn, thuộc giòng tộc lớn, trong nhà rất giàu, không ai sánh kịp, bỗng mang bệnh nặng. Thầy thuốc xem bệnh, cần tròng mắt người, hòa với thuốc tốt, trị liệu mới lành. Đại trưởng giả này, liền sai tôi tớ, đi khắp các đường, lớn tiếng rao rằng: “Người nào có thể, nhẫn chịu đau đớn, bán đôi tròng mắt, sẽ trả ngàn vàng, kho tàng quý giá, mặc tình sử dụng, không hề lẫn tiếc…”
Nữ nhân Điên Đảo, nghe lời nói này, lòng rất mừng rỡ và tự nghĩ rằng: “Nay ta từ nơi Đức Phật, được nghe Kinh Trường Thọ mà dứt trừ nghiệp ác, tâm đã tỏ rõ, ngộ ra Phật tánh, lại được lìa khỏi, sát quỷ vô thường, và khổ đại ngục, ta nên nghiền thân, đáp đền ơn Phật…”. Nghĩ xong lớn tiếng, xướng lên lời rằng: “ Tuổi ta nay đã được bốn mươi chín, theo Phật nghe pháp, tên Kinh Trường Thọ, nay muốn nát thân, không tiếc xu mệnh (thân mạng), chép Kinh Trường Thọ, bốn mươi chín quyển, muốn cho chúng sanh, thọ trì đọc tụng. Ta cần bán mắt, để tả Kinh này, mắt ta vô giá, mặt tình cho người, tùy ý trả giá”.
Lúc ấy, vị trời Đế Thích, với các Thiên tử, đồng hóa ra bốn mươi chín người đời, đến chỗ Điên Đảo, nói với người rằng: “Ta nguyện vì ngài, biên chép Kinh ấy, ngài xem xong rồi, tha hồ bán mắt”.
Nữ nhân Điên Đảo, lấy làm may mắn, mừng rỡ vô hạn, chẻ xương làm viết, xẻ thịt tay chân, lấy máu làm mực, cung cấp người viết, trong vòng bảy ngày, biên chép Kinh xong. Mọi người chép rồi, thưa Điên Đảo rằng: ‘Trước đây người hứa, bán đôi tròng mắt, công chúng tôi xong, xin giao đôi ngươi, chúng tôi đem bán cho Bà-la-môn”.
Lúc ấy, nữ nhân Điên Đảo ra lệnh kẻ Chiên-đà-la moi con ngươi ra, đem giao cho bốn mươi chín người và chia y một phần. Gã Chiên-đà-la, theo cách muốn khoét, thì bốn mươi chín người, đều xướng lên rằng :
Hiếm có! Hiếm có! Chẳng thể nghĩ bàn! Vị nữ Điên Đảo, chẻ xương lấy máu, ghẻ lở nhơ uế, mà vẫn hay nhẫn, biên chép Kinh này, chúng ta nỡ nào lấy đôi tròng mắt!
Rồi các vị này, do lòng từ bi, bạch Điên Đảo rằng:
Chúng tôi trọn chẳng ham tròng mắt ngài, để đem bán cho người Bà-la-môn, mong ngài đắc đạo, sẽ độ chúng tôi. Nguyện cho chúng tôi, bất cứ nơi nào, trong kiếp lai sanh, thường được cùng ngài, đồng chung một chỗ, làm thiện tri thức, tuyên nói Kinh này, cứu độ tất cả, chúng sanh tội khổ.
Bấy giờ, Long vương nan-đà v.v… dùng oai lực lớn, hóa các huyễn thuật, lấy trộm Kinh của nữ nhân Điên Đảo, để trong Long cung, thọ trì cúng dường.
Nữ nhân Điên Đảo, chỉ trong phút chốc, chợt chẳng thấy Kinh, rơi lệ nghẹn ngào, bèn bạch Đức Phật :
Kính bạch Thế Tốn! Con xẻ thân ra, chép Kinh Trường Thọ, muốn khiến lan rộng, tất cả chúng sanh, nay con bỗng nhiên, chẳng biết tại đâu! Lòng con bối rối, buồn rầu khó nhẫn.
Phổ Quang Như Lai bảo với Điên Đảo :
Những Kinh của ngươi, tám bộ Long vương, thỉnh về Long cung, thọ trì cúng dường, ngươi nên vui mừng, chớ nên buồn bã. Lành thay Điên Đảo! Ngươi sẽ nhờ sức công đức này mà, hết tuổi thọ rồi, sanh lên cõi trời, thuộc Vô sắc giới, hưởng mọi vui sướng, mãi mãi chẳng còn, làm thân nữ nhân.
Khi ấy, Điên Đảo bạch lên Đức Phật :
Kính bạch Thế Tôn! Sở nguyện của con, chẳng muốn sanh về cõi trời Vô sắc, chỉ nguyện đời đời kiếp kiếp, luôn luôn được gặp Thế Tôn, tâm Phật chẳng thoái, bất cứ chỗ nào, cũng vì tất cả chúng sanh tội khổ, mà tuyên dương pháp này.
Phật Phổ Quang bảo:
Lời ngươi gian dối.
Điên Đảo lại thưa:
Nếu con nói dối, thì xin như trước, bị quỷ vô thường, đến bắt bức ngặt. Nếu con thật tâm, xin những lở lói, trong thân của con, đối trước Đức Phật, đều trừ lành hết.
Ngay đó Điên Đảo, do sức thệ nguyện, lành lại như cũ.
Phổ Quang Như Lai bảo Điên Đảo rằng :
Ngươi hãy một lòng niệm Phật, thì sẽ từ một Phật quốc, đến Phật quốc khác, ngươi liền có thể, nhìn thấy vô lượng, vô biên thế giới, của các Đức Phật, chẳng thể nghĩ bàn, mà chẳng cần đến, văn tự lời lẽ.
Lúc đó Điên Đảo, chỉ trong khoảnh khắc, liền chứng được tâm Vô thượng Bồ-đề, Vô sanh Pháp nhẫn.
Đức Thế Tôn bảo ngài đại Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi:
Văn Thù nên biết, Phổ Quang Như Lai chính là thân Ta, nữ nhân Điên Đảo là thân ông vậy, bốn mươi chín người, là những Bồ-tát, vừa mới phát ý. Ta về quá khứ, vô lượng vô biên, kiếp xưa trở lại, vì sự hộ thân, mà Ta luôn luôn, cùng với các ông, tuyên nói Kinh này, khiến cho tất cả chúng sanh, người nào có những nghiệp ác, nghe lọt vào tai, dù nửa bài kệ, của Kinh Trường Thọ trên đây, đều được diệt tội, nay lại nói thêm.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc, ngay trong đêm ấy, tại giữa vương cung, nghe một người nữ, lớn tiếng khóc ròng, tiếng khóc não nề, người nghe khó nhẫn, buồn không kể xiết. Vua tự nghĩ rằng: “Thâm cung của ta, chưa bao giờ có sự việc như vầy, vì sao có tiếng bi ai thế kia?”. Lúc vừa sáng sớm, sai các quan chức, đi nhiều ngã đường, tìm người nữ ấy.
Sứ vâng lệnh vua, tìm được đưa về, người nữ kinh ngạc, ngất xỉu trước vua, vua lấy nước lạnh, rưới lên trên mặt, hồi lâu tỉnh dậy, ngài mới hỏi rằng:
Đêm qua kêu khóc, có phải ngươi chăng?
Người phụ nữ đáp :
Vì tôi nhức tai.
Nhà vua hỏi tiếp :
Cớ gì oán khóc, ai xâm phạm ngươi?
Nữ nhân đáp rằng :
Tôi tự ân hận, không ai xâm phạm. Cúi xin nhà vua cho phép tôi nói.
Tôi mười bốn tuổi, đã làm vợ lớn, của bên nhà chồng, qua ba mươi năm, sanh ba mươi con, dung mạo đẹp lạ, tóc màu xanh biếc, tay đỏ như son, răng trẳng như ngọc, thân thể đầy đặn như hoa màu xuân. Tôi luyến mến chúng dường như tủy não, như gan ruột mình, hơn cả tánh mạng. Chúng vừa lớn lên, chẳng hơn một tuổi, vào lúc Thu, Hè bỏ tôi mà chết. Đứa con sau cùng, hơn cả mạng tôi, hiện nay nó lại đang bị nguy khốn, mạng sắp sửa mất, cho nên đêm qua, tôi mãi kêu khóc, nhức cả lỗ tai.
Vua Ba-tư-nặc, nghe được lời ấy, ông rất buồn bã, thầm tự xét rằng: “Thứ dân trăm họ, nương nhờ nơi ta, nếu chẳng cứu giúp, sao gọi là vui ?”. Liền nhóm các quan, cùng nhau bàn luận. Nhà vua có sáu vị quan đại thần. Một là Kiến Sắc. Hai là Văn Thinh. Ba là Hương Túc. Bốn là Biện Tài. Năm là Tùy Duyên. Sáu là Dị Nhiễm. Họ tâu với vua:
Trẻ nít mới sanh, nên bày sắm lễ, Thần Đàn diên mạng, bảy vị tinh quân, hai mươi tám vị sao, mới khỏi nạn khổ, cúi xin nhà vua ra lệnh khắp nước…
Khi ấy, có một vị quan sáng suốt, đã từng ở chỗ, vô lượng Đức Phật, vun trồng căn lành, tên là Định Huệ, ra thưa với vua:
Đức vua nên biết, lời sáu vị quan, chẳng thể cứu khổ. Nay có Đại sư, họ là Cù-đàm, hiệu Tất-đạt-đa, không thầy tự ngộ, đã được thành Phật, hiện ở Linh Thứu, nói Kinh Trường Thọ, cúi xin đức vua, qua đó nghe nhận. Nếu nghe Kinh này, nửa kệ qua tai, không một tội nào, mà chẳng tiêu diệt. Tất cả trẻ con, nghe lọt vào tai, dầu chưa ngộ hiểu, do công đức Kinh, tự nhiên sống lâu.
Vua Ba-tư-nặc nói :
Trước đây ta từng nghe lục sư nói: “Sa-môn Cù-đàm, học hỏi cạn cợt, mặt còn trẻ trung, tuổi tác còn nhỏ. Trong những kinh của lục sư nói rằng: “Người hay làm trò, huyễn hóa yêu mị, là Cù-đàm vậy, nếu ai tôn sùng, phần nhiều bỏ mất, con đường chơn chánh”.
Vị quan Định Huệ, dùng kệ thưa vua :
Thích Ca Mâu Ni, thầy trời người
Từng vô lượng kiếp tu khổ hạnh
Nay được thành Phật, chuyển pháp luân
Lại nương chư Phật quá khứ nói
Chẳng trái nguyện của khắp chúng sanh
Sức từ bi lớn cứu loài mê
Gặp Phật khó như rùa gặp bọng
Cũng như gặp hoa mẫu Ưu-đàm
Cúi xin nhà vua qua nghe pháp
Chớ tin lời lục sư ngoại đạo.

Đại thần Định-Huệ, nói kệ ấy rồi, do sức thần thông, vọt khỏi mặt đất, bay lên hư không, cao hàng trăm thước, liền ở trước vua, làm các chú thuật, trong khoảng một niệm, khiến núi Tu-di và nước biển lớn, vào hết trong tâm, an nhiên vô ngại.
Vua Ba-tư-nặc, thấy việc này rồi, khen rất hiếm có: “Đây mới đúng là, chơn thiện tri thức”, liền dạy Định Huệ, thưa với người rằng:
Thầy ông là ai?
Ngài Định Huệ đáp :
Thầy tôi là Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện nay ở tại, đại thành Vương Xá, trong núi Linh-thứu, đang nói về Kinh Trường Thọ Diệt Tội.
Vua nghe lời này, lòng rất mừng rỡ, liền đem việc nước, tạm giao Định Huệ, vua cùng quyến thuộc, các quan, trưởng giả, xe báu bốn ngựa, trước sau vây quanh, và người phụ nữ, với con của bà, cầm những tràng hoa, trăm thứ cúng dường, đem hết câu chuyện, của người phụ nữ, bạch lên Đức Phật.
Đức Thế Tôn bảo vua Ba-tư-nặc:
Người phụ nữ này, về đời quá khứ, thân làm mẹ ghẻ, tâm sanh ganh tỵ, hòa hợp thuốc độc, giết con vợ trước đến ba mươi đứa, những đứa bị giết đều phát thề rằng: “Nguyện ta đời đời kiếp kiếp sau này, thường làm con bà, bèn chia ly ngay, khiến bà khổ sở, một cách đau đớn”. Bây giờ người nữ, đến đây được nghe, Như Lai nói Kinh Trường Thọ Mạng lâu dài, bài kệ vào tai, oan gia trái chủ, từ đây dứt hẳn.
Bấy giờ, Đức Phật bảo khắp đại chúng:
Khi một người nữ nào đó thọ thai, thì ma Ba Tuần, thả bốn rắn độc, thuộc về bốn đại, giặc ác sáu trần, vào thân người ấy. Một đại chẳng điều, mạng căn liền diệt (dứt). Như Lai có Đà-la-ni thần chú, có thể tăng thêm, mạng sống tuổi thọ, cho các trẻ con, nếu ai lo khổ, nghe chú của ta, qua tai một lần, thì không bệnh gì, mà chẳng trừ lành, hay khiến quỷ dữ, bỏ chạy tứ tán.
Đức Thế Tôn liền nói thần chú rằng:
Ba đầu di, ba đầu di đề tỳ hề ni hề ni, hề di da lê, gia la gia lệ, hầu la hầu la, do lệ do la, do lệ ba la, ba lệ văn, chế sân diệt, tần diệt bát thệ mạt diệt trì na ca lê, ta bà ha.
Đức Phật nói tiếp :
Văn cú của chú Đà-la-ni này, nếu kẻ thiện nam, người thiện nữ nào, thọ trì đọc tụng, vì tất cả những trẻ thơ bệnh hoạn, lúc còn trong thai, sau khi ra thai, mà đem diễn nói, bảy ngày bảy đêm, đốt hương, rải hoa, biên chép cúng dường, hết lòng nghe nhận, thì những bệnh nặng, nghiệp chướng thân trước, đều được tiêu diệt.
Bấy giờ, có ngài Bồ-tát y vương – vua trong ngành thuốc, tên là Kỳ-bà, đối truớc Đức Phật, bạch với Ngài rằng:
Kính bạch Thế Tôn! Con là một bậc, thầy thuốc đại tài, chữa trị các bệnh, những đứa trẻ thơ, có chín loại bệnh, làm chúng đoản mạng. Thế nào là chín?
Một là những kẻ, làm cha làm mẹ, chung chạ trái lúc.
Hai là trong lúc, mới sanh đẻ con, để máu dơ đất, thần đất bỏ đi, ác quỷ tiện dịp.
Ba là mới sanh, chẳng bỏ trùng độc, bé nhỏ trong rún.
Bốn là chẳng lấy bông mịn chùi sạch máu dơ trong thai.
Năm là giết hại sanh mạng, để làm yến tiệc ăn mừng.
Sáu là mẹ của đứa bé, ăn nhiều trái cây tạp chất lạnh.
Bảy là hài nhi có bệnh, cho ăn cá thịt tạp nhạp.
Tám là mới sanh, mẹ con chưa an, để cho những người chẳng lành, nhìn thấy chỗ nơi sanh đẻ. Chưa phân an nguy, có thể làm cho, người mẹ bị chết.
Phân an nguy rồi, có thể làm cho, đứa con bị chết. Thế nào gọi là, những người chẳng lành? Nếu như có người, mắt vừa nhìn thấy, thấy chết nào đó, hoặc là thấy những tai biến quái dị, mắt họ bất tịnh, cho nên gọi là, hạng người chẳng lành. Gặp trường hợp này, nếu dùng vị thuốc Ngưu hoàng, Châu sa, nghiền thành ra bột, trộn với mật ong, đặt ngay tại tim đứa bé, có thể khỏi điềm chẳng lành.
Chín là ban đêm ẫm trẻ tới lui, bị quỷ dữ đánh.
Những trẻ sơ sinh, nếu luôn cẩn thận, chín việc như trên, thì chúng trọn chẳng đến đổi chết mất.
Giữa lúc bấy giờ, thiên ma Ba Tuần, có Tha tâm thông, ở trong cung ma, biết Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Đà-la-ni, cứu độ trẻ thơ, thì lòng tức giận, phát tiếng dữ dội, lo buồn chẳng vui. Ma vương có ba con gái tuyệt đẹp, ra thưa cha rằng :
Chẳng hay vua cha, cớ gì buồn rầu?
Ma vương liền đáp :
Sa-môn Cù-đàm, ở thành Vương Xá, trong núi Linh-thứu, đang vì vô lượng, vô biên chúng sanh, nói Kinh Trường Thọ, lan rộng cho khắp tất cả chúng sanh, được vui sống lâu, xâm cảnh giới ta, ta khởi ác tâm, nay muốn đem các quyến thuộc binh ma, đến nơi dẹp trừ. Giả sử chẳng thể ngăn cản Cù-đàm, thì oai lực ta, có thể cản ngăn, bịt tai tất cả, chư Thiên đại chúng, chẳng để cho họ nghe Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội.
Khi ấy, ba người con gái, con của Ba Tuần, dùng kệ can cha:
Ba con của thiên ma ba Tuần,
Cúi đầu trước mặt, thưa với cha,
Sa-môn Cù-đàm, thầy trời người,
Chẳng phải sức ma hay ngăn cản,
Ngày trước, dưới gốc cây Bồ-đề,
Khi Ngài mới ngồi tòa kiết tường,
Ba đứa chúng con rất xinh đẹp,
Đệ nhứt trong các hàng thiên nữ,
Trăm cách cử chỉ gợi dục tình,
Bồ-tát đều không ý đắm nhiễm,
Xem ba chúng con như mụ già,
Nay thành bực thầy Vô thượng giác,
Vua cha giương cung toan hù dọa,
Gậy gộc, binh khí bủa hư không,
Bồ-tát xem như trò trẻ nít,
Không một chút tâm sợ thoái lui,
Ngày thành đạo làm vua pháp,
Cúi xin vua cha dứt ác tâm.

Lúc ấy, thiên ma Ba Tuần, nghe con nói kệ, liền đem quyến thuộc, lén bàn nhau rằng: “Ta với các ngươi đồng đến chỗ Phật, dùng phương tiện khéo, giả vờ thua cuộc, chịu quy hàng Phật, để Phật tin dùng. Nếu được tin rồi sẽ làm mọi cách ma sự, chướng ngại Kinh này”.
Ngay đó thiên ma, cùng với quyến thuộc, đồng đến chỗ Phật, quanh Phật bảy vòng, rồi bạch lên rằng:
Kính bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói pháp, không mỏi mệt chăng? Nay con lãnh đạo, các quyến thuộc ma, đến đây nghe Kinh Trường Thọ Diệt Tội, làm đệ tử Phật, cúi mong Thế Tôn, chớ trái nguyện con.
Bấy giờ, Đức Phật quở trách Ma vương:
Ngươi ở cung ma, tâm sanh giận tức, dầu được đến đây, cũng chỉ giả vờ, rút lui quy hàng. Trong giáo pháp Ta, chẳng chấp nhận sự lừa dối của ngươi.
Thiên ma Ba Tuần, lấy làm xấu hổ, gương mặt thất sắc, rồi bạch Phật rằng:
Kính bạch Thế Tôn! Con tính kế ngu, làm điều dối trá, xin Đức Phật Thế Tôn, với lòng đại bi, tha thứ tội lỗi. Nay con được nghe, Kinh chú Trường Thọ Bảo Vệ Trẻ Thơ, con xin phát nguyện:
Nếu đời sau này, người nào thọ trì, Kinh Trường Thọ đây, biên chép đọc tụng, bất cứ chỗ nào, con cũng ủng hộ, không để ác quỷ, rình tìm tiện lợi. Dầu ở địa ngục, nếu tội nhân nào, trong khoảng giây lát, nhớ nghĩ Kinh này, con sẽ sử dụng, thần lực vĩ đại, lấy nước biển lớn, tưới xuống tội nhân, khiến địa ngục lớn, biến thành ao sen.
Bấy giờ, lại có La-sát, ăn thịt con nít v.v… làm bậc thủ lãnh, cùng các quyến thuộc, đồng loại với mình, từ trên không xuống, đi quanh bên hữu Đức Phật nhiều vòng, rồi bạch lên rằng:
Kính bạch Thế Tôn! Con từ vô lượng kiếp trở lại đây, chịu thân La-sát, quyến thuộc của con, nhiều như hằng sa, người nào cũng bị, đói khát ép ngặt, chỉ ăn thai non, trong bốn đại châu và ăn máu thịt, con nít mới sanh. Quyến thuộc chúng con, rình chờ chúng sanh, vợ chồng giao hợp, rồi ăn tinh họ, khiến không thọ thai. Hoặc trong bào thai, con cũng theo vào, làm cho sẩy thai, rồi ăn tinh huyết. Mới sanh bảy ngày, chúng con chuyên rình, tìm dịp tiện lợi, dứt mạng căn chúng, cả đến trẻ con, mười tuổi cũng vậy. Quyến thuộc chúng con, biến làm những thứ, vi trùng độc hại, vào trong thai nhi, ăn tinh huyết trong tạng phủ đứa bé, khiến cho hài nhi ọc sữa, tiêu chảy hoặc bị bụng lớn hoặc bị nóng lạnh, tròng mắt có mủ, cho đến lần lần, dứt mạng của chúng.
Nay đây chúng con, nghe Đức Thế Tôn, nói Kinh Trường Thọ, diệt các tội chướng, bảo vệ trẻ thơ. Vâng theo những lời, Đức Thế Tôn dạy, thì quyến thuộc con, bị đói bức ngặt, chẳng dám ăn nuốt.
Phật bảo La-sát:
Các ngươi nên thọ, cấm giới của Ta, sẽ khiến các ngươi, bỏ thân la-sát, sanh về cõi trời, hưởng sự vui sướng.
Đức Thế Tôn bảo toàn thể đại chúng:
Nếu có trẻ nít, bị mắc bệnh khổ, bảo mẹ đứa bé, chia sữa nhiều giọt, cho giữa khoảng trống, thí các La-sát và nên thanh tịnh, trì Kinh Trường Thọ Diệt Tội Đà La Ni, biên chép cúng dường, thì bệnh trừ lành.
Khi ấy, số đông các quỷ La-sát, rất là mừng rỡ, bạch Đức Phật rằng:
Ví được sanh thiên, quyến thuộc chúng con, trọn chẳng xâm tổn, sữa các trẻ thơ. Thà ăn hoàn sắt, trọn chẳng thể ăn máu các hài nhi.
Sau Phật diệt độ, nơi nào có thể, đọc tụng thọ trì, Kinh Trường Thọ này, nếu có kẻ ác, quấy rối Pháp sư, hoặc có ác quỷ, phá các trẻ thơ, chúng con sẽ cầm, những chày kim cang, để bảo vệ trẻ, chẳng cho các quỷ, được dịp tiện lợi.
Bấy giờ, tất cả vua lớn các trời, và quyến thuộc mình, tất cả chúa rồng, các vua Da-xoa, vua A-tu-la, vua Ca-lầu-la, vua Khẩn-na-la, vua Ma-hầu-la-già, vua Bế-lệ-da, vua A-tỳ-xá-giá, vua Phú-đơn-na, cho đến vua Ca-tra Phú-đơn-na… Tất cả các vua, mỗi vị cùng với, toàn thể quyến thuộc, lễ lạy Đức Phật, đồng lòng chắp tay, nói lên như vầy:
Kính bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay, bất cứ chỗ nào, có thầy Tỳ-kheo, hay Tỳ-kheo ni, các cận sự nam, hay cận sự nữ, hễ ai thọ trì, Kinh Trường Thọ này, hoặc chỉ biên chép, quyến thuộc chúng con, thường sẽ bảo vệ. Các vua chúng con, xua đuổi ác quỷ, có quỷ dữ nào, khuấy rối chúng sanh, khiến mắc bệnh khổ, nếu hay thanh tịnh, viết trì Kinh này, các vua chúng con, cấm chỉ các quỷ, chẳng cho gây hại, bị khổ chết ngang.
Khi đó, có vị địa thần Kiên Lao, từ tòa đứng dậy, bạch Đức Phật rằng:
Kính bạch Thế Tôn! Nếu đệ tử Phật, thọ trì bổn Kinh Trường Thọ Diệt Tội, hộ các trẻ con, địa thần chúng con, thường cho chất đất, thấm nhuần nơi ấy, khiến trong thân họ, tăng thêm thọ mạng. Chúng con thường đem, các thứ vàng bạc, các thứ của báu, những loại thóc gạo, cung cấp đầy đủ, cho người có lòng tin, không thể thiếu thốn, thân được an ổn, không hề rầu lo, tâm thường vui vẻ, được ruộng phước tốt, không để ác quỷ, dứt mạng căn họ. Nếu các hài nhi, mới sanh bảy ngày, địa thần chúng con, sẽ ủng hộ chúng, không để mất mạng.
Bấy giờ trong chúng, lực sĩ Kim Cang, bạch lên Đức Phật:
Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai nói về Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Các Đồng Tử Đà La Ni đây rồi, các đại thí chủ, và quyến thuộc mình, ai cũng phát tâm, thọ trì đọc tụng, biên chép Kinh này, cung cấp vật dùng, không để thiếu thốn. Con có được nghe, một đấng Thế Tôn, oai đức cao cả, nói đại thần chú, có oai lực lớn, chương cú kiết tường, nếu chúng sanh nào, nghe lọt vào tai, trăm kiếp ngàn đời, trọn chẳng đoản mạng, tuổi thọ không lường, chẳng các bệnh khổ, dẫu có bốn ma, cũng chẳng nghịch loạn, thọ mạng thêm lớn, sống lâu đến một trăm hai mươi tuổi, chẳng chết nửa chừng, chẳng bị thoái đọa. Tất cả Phật tử, khổ vì bệnh nặng, nghe đến chú này, liền khỏi các quỷ, đến đoạt mạng sống..
Lực sĩ Kim Cang liền nói thần chú:
Đa địa dạ tha. Chiên đạt lị. Chiên đạt ra tỳ để. Chiên đạt ra ma hồng. Chiên đạt ra bạt đế. Chiên đạt ra phủ lê. Chiên đạt ra xà di. Chiên đạt ra để khế. Chiên đạt phệ mễ. Chiên đột lâu. Chiên đạt ra bà ra yết. Chiên đạt ra vật đạt khế. Chiên đạt ra bà địa di. Chiên đạt ra bà mễ. Chiên đạt ra khư chỉ. Chiên đạt ra lô ký. Ta bà ha.
Đức Thế Tôn dạy :
Lành thay, Lành thay! Lực sĩ Kim Cang! Nay ông có thể, nói về thần chú kiết tường, hộ các trẻ con, ông sẽ trở thành, vị đại đạo sư, của khắp chúng sanh. Văn Thù nên biết, thần chú vừa rồi, được các Đức Phật quá khứ nói ra, dựng lập bảo vệ, khéo có thể tăng thọ mạng trời người, hay trừ tất cả, tội nhơ ác kiến, hay hộ tất cả, những người trì Kinh, kéo dài tuổi thọ.
Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, đấng Pháp vương tử rằng:
Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, nếu có Tỳ-kheo, phá hỏng giới cấm, gần Tỳ-kheo ni, hay những gái trinh, hoặc Sa-di-ni, uống rượu ăn thịt, gian dâm lẫy lừng, bị hàng bạch y, chê bai khinh rẻ, hủy diệt pháp Phật, kinh doanh những việc, bất tịnh của đời, không lòng hổ thẹn, giống như khúc gỗ. Nên biết hạng này, là kẻ ngũ nghịch, chẳng phải đệ tử của Ta, mà là quyến thuộc của ma, là bọn lục sư. Hạng Tỳ-kheo ấy, ngay trong hiện đời, mắc báo đoản mạng, hạng Tỳ-kheo-ni, lại cũng như vậy. Nếu luôn sám hối, chẳng tái phạm lại, thọ trì Kinh này, liền được sống lâu.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, nếu có Bồ-tát, phỉ báng người khác, tự khen mình giỏi, chẳng trao truyền Kinh Phương Đẳng cho người, hạng Bồ-tát này, là bạn của ma, chẳng phải là hạng Bồ-tát chân thật. Nếu luôn hết lòng, thọ trì Kinh này, biên chép đọc tụng, tức được Pháp thân chơn thường của Phật.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, nếu có vua chúa, giết cha hại mẹ, tru lục sáu thân, không theo phép vua, dấy binh khắp nơi, xâm chiêm nước khác, tôi trung can gián, bị giết oan uổng, dâm dục lẫy lừng, trái phép tiên vương, phá tháp đập chùa, thiêu đốt kinh tượng, mưa nắng chẳng đều… Do vua vô đạo, cõi nước đói kém, ôn dịch chết chóc, diễn ra khắp nơi. Hạng vua chúa này, hiện đời đoản mạng, chết vào địa ngục, đọa đại A-tỳ. Nếu như có thể, biên chép Kinh này, lưu thông cúng dường, chí thành sám hối, theo phép vua trước, liền được sống lâu.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, nếu có quan lớn, hay các quan chức, thân hưởng lộc vua, không lòng hổ thẹn, siểm nịnh bất trung, chuyên làm lừa dối,. Do hạng “tặc thần”, nên nước chẳng yên. Dẫu đến chỗ nào, cũng chẳng thi hành, pháp luật của nước, xâm lấn trăm họ, buông ý tham tàn, giết người vô tội, chiếm tài sản người, khinh lờn Kinh điển, ngăn chướng Đại thừa… Những hạng như trên, hiện đời đoản mạng, đọa ngục A-tỳ, không hẹn kỳ ra. Nếu như có thể, sám hối tội lỗi, thọ trì Kinh này, biên chép đọc tụng, liền được sống lâu, hưởng mãi lộc trời.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, kẻ cư sĩ nam, cư sĩ nữ nào, tin theo tà giáo, thấy biết điên đảo, chẳng tin Chánh pháp, Kinh điển đại thừa, chúng sanh như vậy, dù có vô lượng, trăm ngàn vàng bạc, nhưng lòng tham tiếc, chỉ cầu tài lợi, chẳng hay cấp thí, cứu ngặt bất cứ kẻ nghèo khổ nào, chẳng hay biên chép, mười hai phần giáo, thọ trì đọc tụng, cầu khỏi vô thường và khổ đường ác. Hạng người như thế, nhà cửa hư hao, chim quái xuất hiện, rắn vào nhà nằm, chó lên mái nhà, trăm tiếng chuột kêu, các loài dã thú, tranh nhau đến ngõ, nhiều quỷ ly mị, vọng lượng v.v… Đó gọi là quái. Do gặp quái nên, tâm bị buồn rầu, do nhân buồn rầu, chuốc lấy đoản mạng. Nếu hay thọ trì, biên chép Kinh này lưu thông đọc tụng, ngay đó có thể, phá dẹp những thứ, quái gỡ như trên, được mạng sống lâu.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, tất cả những kẻ, trai gái lớn lên, (kẻ làm cha mẹ) vì sự thương xót, mà bị tâm bệnh. Tại vì sao thế ?
Hoặc có thanh niên, bị sung quân dịch, luật vua như thế, không sao thoát khỏi, cha mẹ nhớ nhung, đó là tâm bệnh. Hoặc gái trưởng thành, gả về nhà người, nhưng bị khinh rẻ, trái đạo phu thê, cha mẹ nhớ thương, đó là tâm bệnh. Vì tâm bệnh nên, sáu lo khổ sở, buồn rầu nhóm bệnh, hiện đời mạng ngắn. Nếu hay biên chép, thọ trì Kinh này, được mạng sống lâu. Do oai lực Kinh, hôn nhân hòa thuận, tâm bệnh tiêu trừ.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, hầu hết chúng sanh, không tâm từ bi, sát sanh hại mạng, ăn mười thứ thịt, thân của mọi loài. Văn Thù nên biết, đó không khác gì, giết cha giết mẹ, ăn thịt bà con hoặc vì giết mạng, mà lại phá thai, làm việc ấy nên hiện đời đoản mạng. Giả sử những lúc, vợ chồng chăn gối, bị La-sát dữ, ăn nuốt bào thai, khiến không con cái. Nếu hay biên chép, thọ trì Kinh này, liền khỏi khổ ấy.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, hầu hết chúng sanh, chẳng biết kiếp trước, tạm được làm người, cho là sung sướng, bèn phỉ báng nhau, hoặc cậy quyền hào, đủ thứ ác tâm, xem nhẹ mạng người, chẳng tin Kinh điển, ngạo mạn Đại thừa. Người như thế đó, hiện đời đoản mạng. Nếu hay dốc lòng, tha thiết sám hối, điều phục tâm mình, biên chép Kinh này, thọ trì đọc tụng, do sức thiện căn, được mạng sống lâu. Giả sử có bệnh, cũng chẳng chết ngang.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, có nhiều chúng sanh, hoặc vâng lệnh vua, hoặc cha mẹ dạy, mà ở nước khác, hoặc nơi đường hiểm, để lo buôn bán, tìm kiếm của tiền, vì tài lợi mà, ngã mạn cống cao, đánh cờ đánh bạc, gần gũi điếm đàng, giao thiệp bạn ác, chẳng tuân lệnh vua, lời cha mẹ day, uống rượu ham dâm, táng thân mất mạng. Dẫu được tiền của, nhưng bị rượu mê, chẳng biết đường sá, thông nghẽn thế nào, sau phải bị lũ giặc ác cướp của, do đó hại mạng. Nếu hay biên chép, thọ trì Kinh này, phát thệ nguyện rộng, thì đến nơi nào, giặc ác cũng lui, sanh tâm vui mừng, những thú độc dữ, chẳng thể nhiễu hại, thân tâm an ổn, được nhiều hàng quý, do lực của Kinh, được mạng sống lâu.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, hầu hết chúng sanh, vì nghiệp ác nên chết vào địa ngục, từ địa ngục ra, chịu thân súc sanh, dẫu được làm người, sáu ăn chẳng đủ, mù điếc, câm, ngọng, lùn xấu lưng gù, chịu thân người nữ, chẳng biết chữ Kinh. Nếu là thân nam, nhưng vì nghiệp ác, cho nên ngu si, căn tánh chậm lụt, chẳng thể chuyên đọc, Kinh Trường Thọ này, lòng sanh buồn rầu. Bởi buồn rầu nên gọi là tâm bệnh, do tâm bệnh nên, hiện đời mạng ngắn. Nếu có thể nhờ, bậc thiện tri thức, biên chép Kinh này, tự đem Kinh về, từ trước đến sau, một lòng tôn thờ, nhờ chí thành nên công đức vô lượng, nghiệp ác như trước, chẳng còn chịu lại, người này hiện đời, được mạng sống lâu.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, nếu có chúng sanh, sau khi chết mất, từ một ngày đến bốn mươi chín ngày, nếu vì người mất, mà gây dựng phước, công đức bảy phần, thì người mất chỉ hưởng được một phần. Nếu có thể khi người kia còn sống, trong bảy tuần nhựt, đình chỉ việc nhà, biên chép Kinh này, hoa hương cúng dường, thỉnh Phật hoặc Tăng, sắm sanh trai phạn, được những công đức, như cát sông Hằng, người ấy hiện đời, được dài thọ mạng, lìa hẳn nỗi khổ, trong ba đường ác. Nếu đã chết rồi, thì nhờ nơi phước, của cải chính thân người ấy gầy dựng, mà được bảy phần.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, rất nhiều chúng sanh, bất hiếu ngũ nghịch, không lòng nhân từ, dối với cha mẹ, không tình âu yếm, chỉ thờ bà con. Bấy giờ trên không, bốn vị Thiên vương, quanh khắp bốn châu, nhiều thứ âm nhạc, đem theo quyến thuộc, vào ba tháng chay, đến cõi Diêm-phù, nếu có chúng sanh, bị ngang các bệnh, Thiên vương đi đường, vì trừ ác quỷ, khiến bệnh được lành. Song những con người, bất hiếu ngỗ nghịch, ganh tỵ tạo ác, Quỷ vương hành bệnh, liền lấy hơi độc, hà hơi cho bệnh, khiến bị các thứ, ôn dịch trầm trọng, hoặc nóng hoặc lạnh, sốt rét hằng ngày, bị độc tà ma, hoặc bị phong cùi. Nếu như có thể, một ngày trong năm, đốt hương rải hoa, thanh tịnh thân tâm, biên chép Kinh này, cho đến bảy ngày, thỉnh Phật, mời Tăng, trai tịnh đọc tụng, nhờ căn lành này, trọn không bệnh dịch không bị tật dịch, nên được trường thọ.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, chúng sanh phước mỏng, bảy mặt trời hiện, giả sử không có, bảy mặt trời hiện ra, thì cũng có những vua chúa vô đạo, khiến trời nắng hạn, bao nhiêu cỏ thuốc, bụi rậm rừng già, trăm giống lúa má, mía nho hoa quả, từ đất có ra, đều bị khô chết. Nếu quốc vương nào hay các chúng sanh, có thể thọ trì, đọc tụng Kinh này, thì các Long vương Nan-đà và Bạt-nan-đà v.v… thương xót chúng sanh, từ nước biển lớn, xối xuống mưa ngọt, tất cả rừng già, trăm giống lúa mạ, cây cối thảo mộc, đều được tươi tốt, chúng sanh nhờ nơi, oai lực Kinh này, được dài thọ mạng.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, hầu hết chúng sanh, đong lường dối trá, được của vô nghĩa, do tội nghiệp đó, chết vào địa ngục, từ địa ngục ra, chịu thân súc sanh, như loài trâu, lừa, voi, ngựa, heo, chó, dê, gà, chim, chóc, muỗi, ruồi, rận, kiến… Nếu có Bồ-tát Ma ha tát, đem lòng từ bi, đối với cầm thú, ruồi, kiến v.v… chuyên đọc Kinh này, qua tai của chúng, do oai lực Kinh, tùy loại giải thoát, những súc sanh đó, bỏ thân kia rồi, được vui sanh thiên. Nếu Bồ-tát nào, không lòng từ bi, chẳng thể diễn nói, về Kinh điển này, người ấy chẳng phải, đệ tử của Phật, là bạn của ma.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, về đời năm trược, hầu hết chúng sanh, lòng dạ khinh mạn, chẳng tin Kinh điển, chê bai Phật pháp, nếu những nơi nào, có người nói pháp, họ không lòng nghe. Do tội nghiệp đó, hiện đời đoản mạng, đọa các địa ngục. Nếu những chỗ nào, giảng nói Kinh này, những chúng sanh nào, có thể đến nghe, hoặc khuyên người khác, chia chỗ cho ngồi, người ấy chính là, rường cột của Phật, được vui trường thọ, chẳng qua đường ác. Vị Bồ-tát muốn chuyển đọc Kinh này, thì nên thanh tịnh, thiết lập đàn tràng, tùy thất lớn nhỏ, đều được tất cả.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, tất cả người nữ, thân mang thai nghén, mà giết sanh mạng, ăn các trứng chim, vì không lòng từ, nên hiện đời bị, mạng sống ngắn ngủi, đến khi sắp sanh, lại bị sản nạn, do khó sanh mà có thể mất mạng, hoặc là oan gia, sanh đến báo thù. Hạng người nữ thọ, nếu phát nguyện rộng, biên chép Kinh này, liền khiến dễ sanh, không các tai chướng, mẹ con an vui. Muốn cầu con trai, muốn cầu con gái, tùy nguyện được sanh.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đại Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi :
Khi Ta nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội, mười hai nhân duyên, Phật tánh thường trụ, mà các Đức Phật quá khứ chung nói, nếu có chúng sanh, thọ trì đọc tụng, được nhiều phước lợi, hết tuổi của họ, sẽ đầy một trăm hai mươi, khi bỏ thân này, chẳng bị khổ vì, phong đao xẻ thân. Do vì Phật tánh, được thân thường hằng, kim cang bất hoại, lóng trong thanh tịnh, của các Đức Phật, niệm niệm vững chắc, thường có Bồ-tát, là Quan Thế Âm, và Đại Thế Chí, nương mây năm sắc, voi trắng sáu ngà, cầm đài hoa sen, đón người niệm Phật, sanh về cõi nước, của Phật A Súc, tự nhiên vui sướng, chẳng qua tám nạn.
Văn Thù nên biết, chúng sanh ngu si, chẳng biết chẳng hay, thọ mạng ngắn ngủi, như lửa nháng đá, như bọt trên nước, như ánh điện chớp. Sao lại trong ấy, chẳng kinh chẳng sợ ? Sao lại trong ấy, ham nhiều tài lợi ? Sao lại trong ấy ? Sanh lòng ghen tỵ, để rồi trôi dạt, trong biển sanh tử ? Chỉ có chư Phật, các vị Bồ-tát, mới đến bờ kia, chúng sanh phàm phu, quyết sẽ trầm luân. Quỷ vô thường đến, bất cứ lúc nào, dầu có vô lượng, vô biên vàng bạc, tiền tài châu báu, muốn đem chuộc mạng, không thể nào được. Chúng sanh cần phải, quán xét thân mình, rồi nghĩ như vầy :
Thân này cũng như, bốn con rắn độc, thường bị vô lượng, vi trùng rúc rỉa. Thân này hôi thúi, bị trói buộc trong, lao ngục tham dục. Thân này đáng ghét, dường như chó chết. Thân này chẳng sạch, chín lỗ thường chảy. Thân này như thành, La-sát trong đó. Thân này chẳng bền, sẽ bị điều quạ, chó đói ăn nuốt. hãy bỏ thân nhơ, cầu tâm Bồ-đề.
Nên quán thân này, lúc bỏ mạng sống, mồ hôi toát ra, hai tay trống rỗng, đau đớn khó nhẫn. Lúc mạng căn dứt, một ngày, hai ngày cho đến năm ngày, sình chướng bầm tím, máu mủ chảy ra, cha mẹ vợ con, chẳng ưa nhìn thấy. Đến khi xương thân, rã ra trên đất, thì các lóng đốt, rơi rớt bừa bãi, xương tay, xương đùi, xương sườn, xương sống, xương đầu, xương sọ, mỗi cái mỗi nơi, da thịt ruột rà, gan, thận, tim, phổi, bị dòi rúc rỉa… Sao lại trong ấy, chấp càng có ngã? Bấy giờ, tất cả vàng bạc, ngọc ngà, tiền của, kho đụn, trong lúc sanh tiền, đâu còn quan hệ gì với ta nữa?
Nếu chúng sanh nào, muốn khỏi khổ ấy, thì chớ nên tiếc, nước thành vợ con, đầu mắt tủy não, biên chép Kinh này, thọ trì đọc tụng, Mười hai nhân duyên, là tạng bí yếu, của các Đức Phật, lưu thông cúng dường, thì trong mỗi niệm, sẽ thành tựu tâm Vô thượng Bồ-đề, không một điều gì, có thể phá hoại, trọn chẳng chết non, vì nạn hoạnh tử.
Khi Đức Thế Tôn, ở giữa đại chúng, nói về giáo pháp “Mười hai nhân duyên, Phật tánh thường trụ” thì cả đại hội, các vị Tỳ-kheo, và Tỳ-kheo-ni, nam nữ cư sĩ, tám bộ trời rồng, hạng nhân phi nhân, vua Ba-tư-nặc, cùng các quyến thuộc, vô số đại chúng, đều giác ngộ tâm Vô thượng Bồ-đề, chứng Vô sanh nhẫn, tất cả đều khen, là chưa từng có, một lòng đảnh lễ, hoan hỷ thực hành.
ĐỨC PHẬT NÓI KINH TRƯỜNG THỌ DIỆT TỘI HỘ CHƯ ĐỒNG TỬ ĐÀ LA NI
HẾT

(XEM THÊM BẢN DỊCH CỦA NGUYÊN THUẬN KÈM THEO BẢN KINH HÁN VIỆT)

(Bản Kinh này đã được kiểm tra chính tả và những lỗi sai sót trong khi đánh máy)

KINH TRƯỜNG THỌ DIỆT TỘI
HỘ CHƯ ĐỒNG TỬ ĐÀ-LA NI
Sa-môn Phật-đà-ba lợi Hán dịch
Mạt nhân Đạo Quang Việt dịch

Tôi nghe như vầy, lần nọ Đức Phật ở núi Kì-xà-quật (Linh Thứu), thành Vương-xá cùng với chúng đại Tì-kheo 1.250 vị, chư đại Bồ-tát 12.000 người, trời rồng tám bộ, quỷ thần, người, chẳng phải người… đều vân tập nghe đức cha lành Thích-ca Mâu-ni giảng nói phương pháp giải thoát.

Lúc bấy giờ đức Như Lai, dùng thần lực của mình, phóng nhiều loại ánh sáng từ trên gương mặt. Ánh sáng đó có năm màu, xanh, vàng, đỏ, trắng, tía, trong mỗi ánh sáng, biến hóa vô lượng vị Phật, có khả năng làm Phật sự, chẳng thể nghĩ bàn. Mỗi một hóa Phật, có vô số Bồ-tát tán thán công đức của Phật. Ánh sáng đó vi diệu, khó mà suy lường, chiếu lên đến cõi trời Phi phi tưởng và xuống dưới địa ngục A-tì (Vô gián), chiếu khắp 80.000 địa ngục, nơi nào cũng có.

Chúng sinh trong đó, gặp ánh sáng của Phật, tự nhiên niệm Phật, đều đạt Sơ địa phương tiện tam-muội. Lúc đó, trong chúng có 49 người mới phát tâm Bồ-tát, ai cũng muốn cầu trường thọ với Phật, song không biết thưa hỏi thế nào. Khi ấy, Bồ tát Văn-thù Sư-lợi biết các vị đó muốn hỏi, bèn đứng dậy, vén y sang vai phải, chắp tay cung kính, thưa hỏi Đức Phật:

– Kính bạch đức Thế Tôn! Con thấy các vị đó có điều muốn hỏi, nhưng không dám hỏi, nên con mạo muội thưa thỉnh, xin ngài cho phép!
– Lành thay! Lành thay! Văn-thù Sư-lợi, con muốn hỏi điều chi, cứ tự nhiên.
– Kính bạch đức Thế Tôn! Tất cả chúng sinh, lăn lộn trong biển sinh tử, gây tạo các điều tội lỗi, từ kiếp này sang kiếp khác, xoay chuyển trong sáu đường, dù được thân người, nhưng bị quả báo mạng sống ngắn ngủi. Vậy làm sao giúp họ kéo dài tuổi thọ, diệt trừ các nghiệp xấu ác? Cúi xin Ngài chỉ cho chúng con pháp trường thọ!
– Này Văn-thù Sư-lợi! Con có lòng đại từ rộng lớn xót thương chúng sinh tội khổ, có thể hỏi những lời như vậy. Nhưng nếu thầy nói rõ, e chúng sinh không thể tin nhận.
– Kính bạch đức Thế Tôn! Ngài là bậc Nhất thiết chủng trí, thầy của trời người, che chở khắp chúng sinh, cha lành của muôn loài, là đại pháp vương, một âm thanh diễn nói hết thảy. Cúi mong Ngài thương xót chúng con, nói rõ việc ấy.

Đức Như Lai mĩm cười, nói cùng đại chúng:
– Các vị lắng lòng nghe kỹ, thầy sẽ nói rõ. Thời quá khứ, có thế giới tên Vô Cấu Thanh Tịnh, cõi đó có Đức Phật hiệu Phổ Quang Chính Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân sư, Phật Thế Tôn. Được vô lượng vô biên đại chúng Bồ-tát cung kính vây quanh. Trong giáo pháp của Ngài, có vị Ưu-bà-di (cận sự nữ) tên Điên Đảo, nghe Phật thị hiện ra đời, cô cũng muốn xuất gia theo Ngài, khóc than thảm thiết, thưa cùng Đức Phật:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Con có nghiệp ác, muốn cầu sám hổi, xin Ngài cho con được nói. Trước kia, con mang thai được 8 tháng, nhưng người nhà không thích nó, nên con buộc phải uống thuốc phá thai. Khi sinh ra, đứa bé đã đầy đủ hình hài. Con nghe người ta nói, nếu cố ý phá thai, người này hiện đời bị quả báo bệnh nặng, tuổi thọ ngắn ngủi, chết đọa vào địa ngục A-tì, chịu đau khổ cùng cực. Bây giờ con nghĩ lại, sợ hãi khôn cùng, cúi xin Thế Tôn từ bi chỉ dạy, cho con được xuất gia, hầu thoát khỏi khổ ấy.

Đức Phổ Quang Chính Kiến Như Lai bảo:
– Trên thế gian có năm việc, sám hối khó hết: Một là giết cha; hai là giết me; ba là phá thai; bốn là làm thân Phật ra máu; và năm là phá hòa tăng. Tội ác như vậy khó mà tiêu trừ.

Khi ấy, nàng Điên Đảo càng khóc to, nước mắt như mưa, năm vóc gieo xuống đất, lăn lộn trước Phật thưa thỉnh:
– Lạy Phật đại từ đại bi, cứu hộ hết thảy, xin thương xót chỉ dạy.
Đức Phổ Quang Chính Kiến Như Lai nói lại:
– Ác nghiệp này của con, phải đọa vào địa ngục A-tì, không có lúc ngừng nghỉ. Trong địa ngục nóng, tạm gặp gió lạnh tội nhân tạm mát. Trong địa ngục lạnh, tạm gặp gió nóng, tội nhân tạm ấm. Còn trong địa ngục A-tì không có chuyện đó, lửa trên đổ xuống, lửa dưới cháy lên, bốn tường bằng sắt, phía trên giăng lưới sắt. Bốn cửa Đông Tây, có lửa nghiệp lớn, nếu chỉ có một người, thân cũng đầy chật cả ngục, thân lớn 80.000 do-tuần, nếu có nhiều người, cũng đều đầy chật. Khắp thân tội nhân có rắn sắt lớn, chất độc của nó còn ghê hơn lửa lớn, hoặc chui vào từ miệng chui ra mắt, mũi, quấn chặt lấy thân, từ kiếp này sang kiếp nọ, tay chân người tội, thường bị lửa thiêu. Lại có chim sắt, mổ thịt tội nhân. Hoặc có chó đồng, nhai thân người tội. Ngục tốt đầu trâu cầm binh khí, phát ra tiếng kêu ghê rợn, như tiếng sấm sét, nói: “Ngươi cố ý phá thai, phải chịu khổ này”. Nếu thầy nói sai, sẽ không được gọi là Phật.

Nàng Điên Đảo nghe Đức Phật nói, khóc thương té xỉu, lát sau tỉnh lại bạch Phật:
– Kính bạch đức Thập Thệ! Chỉ có một mình con mới thọ khổ này, hay tất cả chúng sanh đều phải thọ?

Đức Phật Phổ Quang đáp:
– Con của con trong thai, đầy đủ hình người, nằm trong tử cung giống như trong địa ngục, thân thể bị đè bẹp. Nếu mẹ ăn thứ nóng, cảm thấy như đang rơi vào địa ngục nóng. Nếu mẹ ăn thứ lạnh, cảm thấy như đang nằm trong địa ngục lạnh. Đau khổ suốt ngày. Do vô minh, con lại khởi tâm ác, cố ý uống thuốc độc, nghiệp ác này, tự đọa A-tì. Tội nhân trong đó là đồng bọn với con.

Điên Đảo lại khóc than, thưa thỉnh cùng Phật:
– Con nghe người trí nói, nếu lỡ gây tạo các việc ác, gặp Phật và chúng tăng, thành tâm sám hối tội ấy được tiêu trừ. Giả sử chết đi, rơi vào địa ngục, hàng thân quyến tu tạo chút phước, vẫn được sinh về cõi trời. Ý ấy thế nào, xin chỉ dạy cho con!

Đức Phổ Quang Chính Kiến Như Lai dạy:
– Nếu có chúng sinh gây tạo các tội nặng, gặp Phật và tăng, chí thành sám hối, quyết không tái phạm, tội được tiêu diệt. Nếu sau khi chết, vua Diêm-ma-la tra hỏi chưa xong. Lúc ấy, hàng thân quyến của người đó, thỉnh Phật và chư tăng, nội trong bảy ngày chuyên đọc tụng kinh điển Đại thừa Phương đẳng, đốt hương rải hoa, sẽ được sứ giả của Diêm-la, tra xét lại thiện ác, cầm phan năm màu, đến chỗ Diêm-la, xung quanh lá phan, tự nhiên phát ra lời ca ngâm tán thán âm thanh vi diệu, nhẹ nhàng êm dịu, bảo vua Diêm-la: “Người này tích thiện!”

“Hoặc nhiều người chết, nội trong bảy ngày, khi còn sống mê tín tà đạo, thấy biết điên đảo, không tin kinh điển Đại thừa của nhà Phật, không có lòng hiếu thảo và tâm từ bi, sẽ có sứ giả Diêm-la, cầm lá phan đen, xung quanh lá phan, có rất nhiều quỹ dữ, nói cho vua Diêm-la biết: “Người này chứa ác”.

Lúc đó, vua Diêm-la thấy lá phan năm màu vui vẻ tột cùng, lớn tiếng khen ngợi: “Nguyện cho thân tội lỗi của ta cũng giống như thân của ngươi”. Lúc đó, tất cả các địa ngục biến thành suối trong mát, núi đao rừng kiếm như hoa sen mọc, hết thảy người tội đều thấy vui vẻ. Nếu thấy phan đen, Diêm vương tức giận, lớn tiếng trách mắng, liền bắt tội nhân giao cho 18 ngục, có tội nhân lên cây kiếm, vào núi đao, nằm giường sắt, ôm cột đồng, trâu cài bừa trên lưỡi, xay nghiền mài giả. Trong một ngày, vạn lần chết vạn lần sống, cho đến chuyển vào địa ngục A-tì, chịu đau khổ tột độ, từ kiếp này sang kiếp khác, không có lúc dừng nghỉ”.

Nói chưa dứt lời, giữa hư không có tiếng hét lớn:
– Điên Đảo, ngươi cố ý phá thai, phải chịu quả báo đoản mạng, ta là quỉ sứ, đến bắt ngươi đây.

Cô sợ hãi khóc than, ôm chân Phật, xin Ngài từ bi giảng nói nhân duyên diệt tội trong tạng pháp của chư Phật, dầu có chết cũng cam lòng.

Bấy giờ đức Phật dùng oai lực bảo quỉ sứ:
– Quỷ dữ Vô Thường, nay Như Lai muốn nói kinh Trường Thọ Mạng Diệt Tội cho cô Điên Đảo, chờ đợi giây lát, tự sẽ chứng đắc.
– Con nên lắng nghe, thầy sẽ y theo hàng ngàn Đức Phật trong quá khứ, nói kinh Trường Thọ Mạng, là tạng pháp bí yếu cho con, giúp các con lìa xa đường xấu ác.

Điên Đảo con! Quỷ dữ Vô Thường này, không nói tình nghĩa, dù dùng trăm ngàn lượng vàng, lưu li, xà cừ, châu đỏ, mã não để chuộc mạng, cũng không thể được. Dù vua chúa, thái tử đại thần, trưởng giả uy quyền thế lực lớn, song khi quỷ dữ Vô Thường đến, cắt đứt mạng quí, không miễn cho ai. Điên Đảo con! Duy chỉ một chữ Phật, mới có thể thoát khỏi khổ này. Con ơi trên đời có hai hạng người hiếm có, như hoa Ưu-đàm khó gặp, một là cả đời không làm ác, hai là người làm ác nhưng biết kịp thời ăn năn hối lỗi. Người như vậy, thật hy hữu.

Nay con chí thành cầu thầy chứng minh cho lòng thành sám hối, thầy sẽ nói kinh Trường Thọ cho con, giúp con thoát khỏi con quỷ dữ Vô Thường. Điên Đảo con! Đời sau, lúc năm trược loạn, nếu có chúng sinh, gây tạo các tội nặng, giết cha hại mẹ, uống thuốc độc phá thai, ác tâm phá hoại chùa tháp, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng; chúng sinh phạm tội ngũ nghịch như thế, nếu thụ trì kinh Trường Thọ này, biên chép đọc tụng, tự mình chép, hoặc bảo người chép, vẫn diệt được tội, sinh về Phạm Thiên, huống gì nay con được thấy Như Lai.

Lành thay Điên Đảo, con đã trồng căn lành từ vô lượng kiếp, vì con khéo thưa hỏi, thành tâm sám hối, tức được chuyển thành pháp luân vô thượng, có thể độ vô biên biển lớn sinh tử, có thể chiến đấu với ma Ba-tuần, đạp đổ tràng phan do ma dựng. Con nên lắng nghe, thầy sẽ y theo như Phật quá khứ nói pháp 12 nhân duyên.

Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Hữu, Hữu duyên Sinh, Sinh duyên Già chết ưu bi khổ não.

Nếu Vô minh diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh sắc diệt, Danh sắc diệt thì Lục nhập diệt, Lục nhập diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì Thọ Diệt, Thọ diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thì Sinh diệt, Sinh diệt thì Già chết ưu bi khổ não diệt.

Điên Đảo con! Hết thảy chúng sinh do không nhận ra 12 nhân duyên, cho nên trôi lặn trong biển khổ sinh tử. Nếu người nào thấy rõ 12 nhân duyên, thì là thấy Pháp, người thấy Pháp tức thấy Phật, thấy Phật tức là Phật tính. Tại vì sao? Vì chư Phật lấy đó làm tính, nay con nghe thầy nói pháp 12 nhân duyên, vậy con là người được Phật tính thanh tịnh, có khả năng làm bậc pháp khí. Thầy sẽ nói đạo Nhất thừa cho con, con nên suy nghĩ, giữ gìn nhất niệm. Nhất niệm tức là tâm Bồ-đề, tâm ấy gọi là Đại thừa. Chư Phật, Bồ-tát phân chia làm ba vì chúng sinh, trong từng ý niệm con phải thường xuyên giữ gìn, chớ để quên mất. Dù có năm ấm, bốn rắn độc, ba độc, sáu giặc, hết thảy ma quỉ, tìm đến khuấy nhiễu, cũng chẳng thể biến đổi tâm Bồ-đề.

Vì đạt được tâm Bồ-đề như vậy, thân như kim cang, tâm như hư không, không hư hoại, vì không hư hoại, liền được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, đầy đủ bốn đức Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, có thể lìa xa con quỉ dữ Vô Thường này, cùng sinh già bệnh chết và các thứ khổ trong địa ngục. Khi đức Phật thuyết pháp giữa đại chúng, quỉ sứ trên không trung thưa: “Con nghe đức Thế Tôn nói pháp này, địa ngục trở nên thanh tịnh, biến thành ao sen. Nay con bỏ cảnh giới của quỉ”. Quỷ nói tiếp: “Điên Đảo, khi cô đắc đạo, xin độ tôi trước”.

Lúc đó đức Phổ Quang Chính Kiến Như Lai lại bảo nàng Điên Đảo:
– Thầy nói xong pháp 12 nhân duyên cho con rồi, tiếp đến sẽ nói Sáu Ba-la-mật, con nên thực hành: Thứ nhất, Bát-nhã Ba-la-mật. Thứ hai, Thiền Ba-la-mật. Thứ ba, tinh tấn Ba-la-mật. Thứ tư, nhẫn nhục Ba-la-mật. Thứ năm, trì giới Ba-la-mật. Thứ sáu, Bố thí Ba-la-mật. Con nên thực hành đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật này.

Lại nữa, thầy sẽ nói bài kệ thành Phật của chư Phật trong quá khứ. Ngài nói kệ:

“Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt,
Sinh diệt diệt rồi,
Tịch diệt là vui”.
Bấy giờ, nàng Điên Đảo nghe pháp vui mừng, tâm rộng mở sáng suốt thanh tịnh, thấu triệt mọi lẽ, nương vào thần lực của Phật, bay thẳng lên hư không cao bảy cây đa-la, tâm lặng ngồi im. Lúc ấy, có một người Bà-la-môn, cực kì giàu có, không ai sánh bằng, bỗng bị bệnh nặng. Đại phu chẩn trị, bảo phải dùng mắt của người nấu chung với thuốc, bệnh mới mong khỏi. Lập tức, ông ta sai người ở, đi khắp nơi rao lớn: “Người nào có thể chịu được đau đớn, móc cặp mắt bán, phú ông thưởng ngàn vàng, kho tàng trân bảo tùy ý sử dụng, không hề hối tiếc”.

Nàng Điên Đảo nghe rao, vui mừng khôn cùng, nghĩ: “Nay mình nghe được kinh Trường Thọ, diệt trừ nghiệp ác, tâm đã tỏ rõ, ngộ ra tính Phật, lại được lìa khỏi quỉ dữ Vô Thường và các khổ trong địa ngục. Ta nên nghiền thân báo đáp từ ân của đức Như Lai”. Cô nói lớn:
– Năm nay tôi 49 tuổi, được nghe kinh Trường Thọ từ kim khẩu Đức Phật, nay muốn nghiền nát thân mạng, chép 49 quyển kinh trường thọ, giúp cho hết thảy chúng sinh phụng trì đọc tụng. Tôi cần bán mắt để chép kinh, các người trả bao nhiêu cũng được.

Lúc đó vua trời Đế-thích hóa ra 49 người, đến nói với cô:
– Chúng tôi đồng ý chép kinh cho cô, sau khi xem xong, rồi mới bán mắt.

Cô vui mừng tột độ, chẻ xương làm bút, xẻ thịt tay chân, lấy máu làm mực, cung cấp cho người viết. Bảy ngày sau, kinh đã chép xong. Những người chép kinh, thưa cùng cô Điên Đảo:
– Trước đây cô hứa đôi mắt, giờ công việc đã xong, xin giao cho chúng tôi, để đem bán cho Bà-la-môn.

Cô liền bảo một người Chiên-đà-la:
– Anh thay tôi móc giùm đôi mắt, chia cho 49 người kia và một phần cho anh.

Anh ta định khoét, 49 người kia đồng thanh nói:
– Hiếm có, hiếm có! Thật không thể nghĩ bàn. Cô Điên Đảo này, chẻ xương lấy máu, lở loét vẫn nhẫn, không tiếc thân mạng, để chép kinh này, chúng ta nỡ nào lấy đôi mắt ấy.
Các vị ấy khởi tâm từ bi, nói với cô:
– Vốn chúng tôi chẳng có tâm tham muốn cặp mắt của cô để bán cho ông Bà-la-môn, chỉ mong cô sớm đắc đạo, hóa độ tôi. Nguyện cho chúng tôi, bất cứ nơi nào ở đời vị lai, cùng ở một nơi với cô, làm người bạn lành, diễn nói kinh này, cứu độ hết thảy chúng sinh tội khổ.

Bấy giờ, Long vương Nan-đà… dùng đại oai lực, làm các huyễn thuật, trộm lấy kinh của nàng đem xuống long cung thụ trì cúng dường.

Bỗng chốc, cô không thấy kinh của mình, khóc lóc bạch cùng Đức Phật:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Con xẻ thân chép kinh Trường Thọ, muốn lưu bố rộng khắp cho hết thảy chúng sinh. Nhưng bỗng nhiên không thấy đâu cả, con bối rối buồn rầu khó nhẫn.

Đức Phật bảo:
– Số kinh của con được tám bộ long vương thỉnh xuống long cung thụ trì cúng dường rồi, con nên vui mừng, chớ có buồn rầu. Lành thay Điên Đảo! Con nhờ công đức này, sau khi mạng chung, được sinh về cõi trời Vô sắc giới, hưởng mọi vui sướng, vĩnh viễn không còn thọ thân nữ nữa.

Khi ấy, nàng bạch cùng Phật:
– Kính bạch đức Phật tôn quí! Chỗ con nguyện không muốn sinh về cõi trời, chỉ mong đời đời kiếp kiếp được gặp Phật, tâm Phật không lui sụt, ở bất cứ mọi nơi, luôn giảng nói pháp này làm lợi ích cho tất cả chúng sinh tội khổ.

Đức Phật bảo:
– Con nói dối.

Nàng thưa:
– Nếu con nói dối, sẽ bị quỉ Vô Thường đến bắt ngay lập tức. Còn nếu nói thật, thì các vết lở loét lành ngay tại đây.

Lúc đó, nàng Điên Đảo nương vào sức nguyện, các vết thương bình phục như cũ.

Đức Phổ Quang Như Lai nói với Điên Đảo:
– Con hãy nhất tâm niệm Phật, thì sẽ từ nước Phật này đến nước Phật khác, con đều thấy rõ vô lượng vô biên thế giới của chư Phật, cho đến hiểu rõ văn tự, lời nói, mà không cần dùng giảng nói.

Lúc đó trong khoảnh khắc nàng chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn, tâm Tam-miệu-tam-bồ-đề.

Đức Phật nói với Bồ-tát Văn-Thù:
– Con nên biết, đức Phổ Quang Như Lai chính là thầy, còn nàng Điên Đảo chính là con. Bốn mươi chin người này là những Bồ-tát vừa mới phát tâm. Từ vô lượng kiếp đến nay, thầy thường với các vị tuyên nói kinh này để hộ thân, giúp cho hết thảy nghiệp xấu ác của chúng sinh, được nghe dù nửa bài kệ của kinh này, đều được diệt tội, nay lại nói thêm.

Lúc đó, vua Ba-tư-nặc, ngay trong đêm đó, nghe tiếng người nữ khóc thê thảm trong cung, ai nghe đến cũng thương tâm, buồn không xiết kể. Đức vua nghĩ: “Thâm cung của ta chưa từng có chuyện này, tại sao lại có tiếng thương tâm thế kia?”. Trời vừa hừng sáng, sai binh lính đi khắp các nẻo đường, tìm cho được người nữ ấy. Tuân lệnh vua, binh lính tìm được cô gái ấy dẫn về cung. Cô sợ hãi quá, ngất lên xỉu xuống, vua ra lệnh rưới nước lên mặt, lát sau dần tỉnh lại.

Vua hỏi cô:
– Tiếng khóc tối qua, có phải của nàng không?
– Đúng là của thiếp!
– Cớ chi lại khóc, ai bắt nạt nàng?
– Thiếp hận chính mình, chẳng ai bắt nạt cả. Xin đại vương cho thiếp được kể.

“Năm 14 tuổi, thiếp đi lấy chồng, qua 30 năm sinh được 30 đứa con, dung mạo xinh đẹp, tóc xanh, môi đỏ như son, trắng như ngọc, thân thể đáng yêu như hoa mùa xuân, thiếp thương yêu như tủy não, ruột gan của mình, hơn cả mạng sống của mình. Khi tất cả chúng vừa qua thôi nôi, đều bỏ thiếp ra đi. Còn đứa sau cùng, đang gặp nguy khốn, thoi thóp trên giường, tối qua thiếp khóc, vì nguyên nhân này”.

Vua Ba-tư-nặc nghe xong, buồn bả vô cùng, nghĩ: “Nhân dân trăm họ nương vào ta, nếu không cứu giúp bảo hộ, chẳng được gọi là vua”. Liền triệu tập chư đại thần, cùng nhau luận bàn. Đức vua có sáu vị đại thần, một là Kiến Sắc, hai là Văn Thanh, ba là Hương Túc, bốn là Biện Tài, năm là Tùy Duyên, sáu là Dị Nhiễm, đều thưa đại vương:
– Đứa bé mới chào đời, nên lập thần đàn bảy tinh quân 28 vị sao để kéo dài tuổi thọ, có như thế đứa bé đó mới thoát khỏi cái khổ này. Cúi xin đại vương ra lệnh cho khắp nhân dân cùng thực hành.

Khi đó, có một vị thần sáng suốt, trồng căn lành ở vô lượng vị Phật trong quá khứ, tên Định Tuệ. Bước ra thưa:
– Muôn tâu đại vương, những sáu vị đại thần kia nói, chẳng thể giải thoát khổ. Hiện tại có vị thầy lớn, họ Cù-đàm, tên Tất-đạt-đa, tự tu tự chứng, đắc quả vị Vô thượng, đang giảng nói kinh Trường Thọ ở núi Linh Thứu, dám xin đại vương đến đó nghe giảng. Nếu chỉ cần nghe được nửa bài kệ của kinh này, tất cả tội nặng trong trăm kiếp ngàn đời đều được tiêu trừ. Trẻ con nghe được kinh này, tuy chưa hiểu gì, nhưng nhờ công đức của kinh được trường thọ.

Vua Ba-tư-nặc không đồng ý:
– Trước đây trẫm nghe Lục sư nói, Sa-môn Cù-đàm, học vấn cạn cợt, tuổi còn quá trẻ. Vả lại sách vở của Lục sư cũng nói, bày trò huyễn hóa yêu mị chính là Cù-đàm, nếu ai tôn sùng, sẽ rơi vào đường tà.

Lúc đó, đại thần Định Tuệ nói kệ tâu cùng đức vua:

“Thích-ca-Mâu-ni thầy trời người
Tu hành khổ hạnh vô lượng kiếp
Nay thành Phật chuyển bánh xe pháp
Lại nương chư Phật quá khứ nói
Không trái nguyện tất cả chúng sinh
Sức từ bi lớn cứu quần mê
Gặp Phật khó như rùa gặp bọng
Cũng như hoa ưu-đàm vi diệu
Cúi xin đại vương đến nghe pháp
Chớ tin lời Lục sư ngoại đạo”.

Đại thần Định Tuệ nói xong, dùng thần thông bay thẳng lên hư không, cao khoảng vài trăm mét, thị hiện các biến hóa, trong khoảnh khắc, thâu núi Tu-di và tất cả nước biển lớn vào tâm, an nhiên không chướng ngại. Vua Ba-tư-nặc tận mắt thấy thế, khen ngợi khôn cùng, đúng là bậc thiện tri thức, tiến đến đảnh lễ Định Tuệ và thưa hỏi:
– Xin hỏi, thầy của ông là ai?

Định Tuệ đáp:
– Thầy của thần là đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đang nói kinh Trường Thọ Diệt Tội tại núi Linh Thứu thành Vương-xá.

Đức vua nghe xong, mừng rỡ khôn cùng, tạm phó thác việc nước cho đại thần Định Tuệ. Sau đó dẫn theo rất nhiều quyến thuộc, đại thần, trưởng giả, xe báu bốn ngựa kéo, đồng thời đưa người phụ nữ kia và con của cô cùng đi. Mang theo nhiều tràng hoa, trăm thứ cúng dường, cùng đến núi Linh Thứu thành Vương-xá. Vua cởi long bào, nhiễu quanh Phật bảy vòng, chắp tay đảnh lễ, rải hoa cúng dường, thưa với Phật chuyện người nữ kia.

Lúc đó, Phật bảo vua Ba-tư-nặc:
– Đời trước người phụ nữ này làm mẹ ghẻ, khởi tâm ganh tỵ, hòa thuốc độc giết chết 30 người con của chồng. Các đứa trẻ bị giết đều thề: Nguyện đời đời kiếp kiếp, đều làm con của mụ ta, chào đời không bao lâu liền chết yểu, khiến bà phải chịu đau khổ, buồn cùng cực.

Lúc đó, người phụ nữ kia nghe được một bài kệ của kinh Trường Thọ, tất cả oan gia trái chủ dứt tuyệt từ đây.

Bấy giờ, Đức Phật nói với Đại Chúng:
– Khi đứa trẻ mới vào thai, ma vương Ba-tuần liền thả bốn con rắn độc, giặc ác sáu trần vào thân người ấy. Nếu một thứ không điều hòa, thân mạng đoạn diệt. Như Lai có chú Đà-la-ni, có khả năng tăng tuổi thọ cho các em bé. Nếu người nào gặp hoạn nạn khổ đau, nghe được chú này, trừ diệt được tất cả, còn làm cho quỉ dữ bỏ chạy không dám ngoái lại.

Ngài liền nói chú:
“Ba đầu di ba, đầu di đề tì, hề ni hề ni, hề di chư lê, chư la chư lệ, hầu lâ hầu la, do lệ do la, do lệ ba la ba lệ văn, chế sân điệt, tần điệt bát thệ mạt điệt trì na ca lê tô ba ha”.

Đức Phật nói tiếp:
– Nếu có người thiện nam thiện nữ nào trì tụng chú Đà-la-ni này, đồng thời giảng nói (hồi hướng công đức) cho những đứa trẻ mới vào thai, vừa chào đời bị bệnh hoạn, trong bảy ngày đêm đốt hương, dâng hoa, biên chép cúng dường, một lòng nghe nhận, thì tất cả bệnh nặng, nghiệp chướng của đời trước đều được tiêu diệt.

Lúc đó, có vị Bồ-tát vua của ngành y (y vương) tên Kì-bà, chắp tay bạch Phật:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Con là thầy thuốc chữa được bá bệnh, các em bé nhỏ, có chín loại bệnh, có thể lấy đi mạng sống của chúng. Một là, cha mẹ quan hệ không đúng lúc, không đúng chỗ và không biết tiết chế. Hai là, khi sinh để máu dơ rơi xuống đất, địa thần bỏ đi, ác quỉ tìm đến. Ba là, lúc mới sinh không lau chùi các loại trùng nhỏ ở vùng rốn. Bốn là, không lấy bông lau sạch máu dơ trong thai. Năm là, giết hại sinh mạng tổ chức ăn mừng. Sáu là, người mẹ ăn thức ăn lạnh. Bảy là, đứa bé bị bệnh, cho ăn cá thịt bừa bãi. Tám là, khi đứa bé gần chào đời, để cho những người xấu thấy chỗ sinh đẻ. Chưa sinh, có thể khiến người mẹ bị chết, còn khi sinh rồi có thể làm đứa bé bị chết. Sao gọi là không lành? Bởi nếu có ai thấy oan hồn và các thứ biến hóa kì dị, mắt không thanh tịnh, nên gọi là không sạch. Gặp trường hợp đó, nên dùng thuốc Ngưu hoàng, trân châu, quang minh sa nghiền nhỏ trộn với mật ong, đắp ngay tim đứa bé, thì sẽ không còn điềm xấu. Chín là, ban đêm ẵm đứa trẻ đi dạo, bị quỉ dữ đánh. Nếu cha mẹ cẩn thận chín điều này, đứa bé sẽ không bị chết yểu.
Lúc đó, thiên ma Ba-tuần có tha tâm trí, ở tại cung ma, biết Đức Phật nói kinh Trường Thọ Diệt Tội và Đà-la-ni cứu hộ trẻ thơ, tức giận, mắng chửi, buồn bực không vui. Ma vương có ba cô con gái, hỏi vì sao cha buồn bực?

Ma vương đáp:
– Sa môn Cù-đàm đang ở núi Linh Thứu thành Vương-xá nói kinh Trường Thọ cho vô lượng vô biên chúng sinh, lưu truyền khắp nơi, được vui sống lâu, làm tổn hại cảnh giới của ta, cha tức giận lắm, nay muốn dẫn theo quyến thuộc binh ma đến đánh. Dù không ngăn cản được Cù-đàm, thì oai lực của ta cũng có thể ngăn cản được chư thiên và đại chúng, không cho họ nghe kinh Trường Thọ.

Ba cô con gái liền nói kệ khuyên cha:
Ba con gái ma vương Ba-tuần
Cúi đầu kính bạch với vua cha
Sa-môn Cù-đàm thầy trời, người
Sức ma không thể ngăn cản nổi.
Ngài xưa, tại gốc cây Bồ-đề
Lúc vừa bắt chân ngồi kiết tường
Chúng con dùng sắc đẹp của mình
Đệ nhất trong các hàng thiên nữ.
Trăm cách cử chỉ khơi dục tình
Bồ-tác vẫn không ý nhiễm đắm
Quán chúng con như những mụ già
Nay thành bậc thầy Vô thượng giác.
Vua cha giương cung tính hù dọa
Binh khí, gậy gộc khắp hư không
Bồ-tát xem như trò con nít
Tâm không chút lo sợ thoái lui
Nay Ngài thành đạo làm vua pháp
Cúi xin vua cha dứt ác tâm.

Bấy giờ, Ma vương Ba-tuần nghe các cô con gái nói kệ, đưa quyến thuộc bàn tính với nhau: “Tìm cách khéo léo giả vờ thua, chịu quy hàng Phật, đến khi ông ta tin mình, lúc ấy chúng ta làm mọi cách chướng ngại kinh này”. Bàn xong, chúng cùng kéo nhau đến chỗ Phật, nhiễu quanh Ngài bảy vòng, quỳ bạch:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Ngài thuyết pháp có mệt lắm không? Nay con đưa quyến thuộc đến nghe kinh Trường Thọ Diệt Tội, làm đệ tử của Ngài, xin Thế Tôn hứa khả cho!

Đức Phật trách mắng y:
– Ông ở cung ma, khởi tâm tức giận, giả vờ đến xin đầu hàng, giáo pháp của ta không chấp nhận sự lừa gạt của ông.

Hắn xấu hổ, mặt tái ngắt, thưa với Phật:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Con bày kế ngu, làm điều dối trá, cúi xin ngài đại từ bi tha thứ lỗi lầm. Con nay được nghe kinh Trường Thọ Hộ Chư Đồng Tử Đà-La-Ni Chú, con phát nguyện, về đời sau, nếu có người thụ trì, biên chép, đọc tụng kinh này, dù ở bất cứ nơi nào con cũng đều ủng hộ, không để cho quỉ dữ hại. Giả sử trong địa ngục, nếu có tội nhân, trong khoảng nháy mắt, nhớ đến kinh này, con sẽ dùng thần lực lấy nước biển lớn trở thành ao sen.

Lúc đó, có loài la-sát bay, la-sát ăn thịt trẻ con… dẫn theo rất nhiều quyến thuộc, từ trên không trung đáp xuống, nhiễu quanh đức Phật một ngàn vòng. Bạch Phật:
– Kính bạch Đức Thế Tôn! Con từ vô lượng kiếp đến nay chịu thân la-sát, quyến thuộc của con nhiều như cát sông Hằng, do bị đói khát bức bách, nên ăn bào thai và thịt con nít mới sinh trong khắp bốn thiên hạ. Quyến thuộc chúng con, rình chờ tất cả chúng sinh, vợ chồng quan hệ rồi ăn tinh của họ, không cho thụ thai. Hoặc trong bào thai con cũng theo vào, làm cho sẩy thai để ăn tinh huyết. Mới sinh bảy ngày, chúng con rình tìm đoạt lấy mạng, đến ngay đứa bé 10 tuổi cũng vậy, bà con chúng con biến thành nhiều loại vi trùng độc hại, chui vào trong bụng, ăn tinh huyết ngũ tạng. Khiến cho trẻ con nôn ọe, tiêu chảy, nóng lạnh, mắt có mủ, bệnh ngày càng nặng cho đến mất mạng. Nay chúng con nghe Ngài nói kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử, rồi đây mọi người thực tập theo, quyến thuộc của chúng con sẽ bị đói khác không có gì để ăn.

Đức Phật nói với la-sát:
– Các con nên thụ trì giới luật của Phật, giúp các con bỏ thân la-sát, sinh về cõi trời hưởng phước.
Đức Phật nói với đại chúng:
– Nếu có em bé nào bị bệnh, bảo mẹ em nặn ít sữa vứt lên hư không để bố thí cho la-sát, đồng thời thụ trì kinh Trường Thọ Diệt Tội này, biên chép, đọc tụng, thì bệnh liền khỏi.

Khi đó, chúng la-sát vô cùng vui mừng, bạch cùng Đức Phật:
– Ví được sinh thiên, quyến thuộc chúng con trọn chẳng xâm tổn sữa của các em bé. Thà nuốt hòn sắt nóng, quyết chẳng uống máu trẻ thơ. Sau khi Ngài thị hiện nhập diệt, chỗ nào có thể đọc tụng thụ trì kinh này, giả sử có người xấu quấy rối pháp sư, hoặc có quỉ dữ làm hại trẻ nít, chúng con sẽ cầm chày kim cang của Phật để bảo vệ, không để quỉ dữ làm càng làm bậy.

Lúc ấy, hết thảy vua lớn các trời cùng với quyến thuộc, tất cả vua Rồng, các vua Dạ-xoa, vua A-tu-la, vua Ca-lầu-la, vua Khẩn-na-la, vua Ma-hầu-la-già, vua Bế-lệ-đa, vua Tì-xá-giá, vua Phú-đơn-na, cho đến các vua Ca-tra phú-đơn-na… cùng với nhiều quyến thuộc, lễ bái Đức Phật, đồng lòng chắp tay, thưa với Ngài:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Từ đây về sau, chúng con ở bất cứ chỗ nào, nếu có thầy Tì-kheo, Tì-kheo-ni, các hàng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, người nào thụ trì hoặc biên chép kinh Trường Thọ này, hàng quyến thuộc của con thường xuyên hộ vệ.

Bấy giờ trong chúng, lực sĩ Kim Cang bạch cùng Đức Phật:
– Kính bạch Đức Thế Tôn! Ngài nói kinh Trường Thọ Mạng Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà-La-Ni Chú đây rồi, các đại thí chủ và quyến thuộc, ai cũng đều phát tâm hộ trì, đọc tụng, biên chép kinh này, cung cấp đầy đủ những thứ cần dùng. Con nghe Đại đức Bà-ca-bà nói “Kiết Tường Chương Cú Đại Thần Lực chú”, nếu chúng sinh nào được nghe, trăm kiếp ngàn đời không bị chết yểu, tuổi thọ khôn lường, đồng thời cũng không bị các thứ khổ đoanh vây. Dẫu có bốn ma cũng chẳng thể loạn động, thọ đến 120 tuổi, không già không chết, chẳng bị thoái đọa. Tất cả Phật tử, khi bị bệnh, nghe được chú này, liền tránh được quỉ đoạt mạng. Lực sĩ Kim Cang liền nói chú:

KIẾT TƯỜNG ĐẠI THẦN LỰC CHÚ
Đa địa dạ tha, chiên đạt lợi, chiên đạt la tì đề, chiên đạt la ma hồng, chiên đạt la bạt đế, chiên đạt la bất lê, chiên đạt la xà di, chiên đạt la để khế, chiên đạt phệ mễ, chiên đột lâu, chiên đạt la bà la yết, chiên đạt la vật đạt khiết, chiên đạt la bà địa di, chiên đạt la bà mễ, chiên đạt la khư chỉ, chiên đạt la lô ký, ta bà ha.

Đức Thế Tôn khen:
– Lành thay! Lành thay! Lực sĩ Kim Cang, con nay nói thần chú kiết tường bảo hộ các trẻ con, con sẽ trở thành vị thầy dẫn đường lớn của hết thảy chúng sinh.

Đức Như Lai nói với Bồ-tát Văn-thù:
– Văn thù nên biết, thần chú này được các Đức Phật trong quá khứ nói, dựng lập bảo hộ, khéo léo giúp tăng thêm tuổi thọ cho trời và người, có khả năng đoạn trừ tất cả tội ác kiến, có khả năng hộ trì những người thụ trì kinh, kéo dài tuổi thọ cho họ.

Đức Thế Tôn nói tiếp với Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi con bậc vua pháp:
– Sau khi Như Lai thị hiện nhập Niết-bàn, vào thời nhơ xấu, nếu có Tì-kheo phá cấm giới, gần gũi Tì-kheo-ni, nữ giới, Sa-di, Sa-di-ni, uống rượu ăn thịt, gian dâm lẫy lừng, bị hàng cư sĩ khinh chê coi thường, hủy diệt Phật pháp, kinh doanh, làm những việc không chính đáng của người đời, không có lòng hổ thẹn, trơ trơ như khúc gỗ…, nên biết những người này là kẻ ngũ nghịch, không phải là đệ tử của Như Lai, mà là quyến thuộc của ma, gọi là lục sư. Hạng Tì-kheo-ni này, trong đời hiện tại, bị quả báo mạng sống ngắn ngủi. Hạng Tì-kheo-ni cũng lại như thế. Nếu có thể phát tâm làm mới, không tái phạm, thụ trì kinh này, liền được sống lâu.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu, nếu có Bồ-tát phỉ báng người khác, khen mình tốt, không truyền kinh điển Phương Đẳng cho người, hạng Bồ-tát này là bạn của ma, chẳng phải thực sự Bồ-tát. Nếu có thể hết lòng thụ trì, biên chép, đọc tụng kinh này, liền đạt được Pháp thân thường trụ của chư Phật.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu, nếu có quốc vương, giết cha hại mẹ, chém giết lục thân, không theo phép vua, dấy binh khắp nơi, xâm lược nước khác, trung thần can gián bị giết không tha, dâm dục lẫy lừng, trái phép tiên vương, phá tháp hủy chùa tháp, đốt kinh thiêu tượng, mưa nắng không hòa… do vua vô đạo, khắp nước đói khác, bệnh tật hoành hành. Quốc vương như vậy, hiện đời bị quả báo đoản mạng, sau khi chết đọa vào địa ngục A-tì. Nếu có thể biên chép kinh này, lưu thông cúng dường, chí thành sám hối, theo pháp tiên vương, sẽ được trường thọ.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu, nếu có đại thần hay các quan chức, hưởng lộc vua, lòng không hổ thẹn, nịnh hót bất trung, lừa dối chúng dân, nguy hại của bọn tặc thần khiến đất nước bất an. Dù gặp bất kì ai cũng chẳng thi hành quốc pháp, lấn hiếp trăm họ, phóng túng tàn ác, tham lam, giết người vô tội, chiếm đoạt tài sản người khác, coi khinh kinh điển, ngăn chướng Đại thừa. Những kẻ như vậy, hiện đời bị quả báo chết yểu, đọa vào địa ngục A-tì, không có ngày ra. Nếu sớm biết sám hối tội lỗi, thụ trì kinh này, biên chép đọc tụng, liền được sống lâu, mãi hưởng lộc vua.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu, nếu có Ưu-bà-tắc (người nam gần gũi phụng sự Ba ngôi báu) hoặc Ưu-bà-di (người nữ gần gũi phụng sự Ba ngôi báo), tin theo tà giáo, thấy biết điên đảo, không tin chính pháp, kinh điển Đại thừa. Chúng sinh như vậy, dù có rừng vàng biển bạc, song lại tham tiếc, luôn cầu muốn cho nhiều, không chịu bố thí, giúp đỡ những người nghèo khổ, không biết biên chép 12 thể loại kinh điển, thụ trì đọc tụng, cầu tránh xa nỗi khổ của vô thường và đường xấu ác. Hạng người này, nhà cửa hư tổn, chim quái xuất hiện trong bếp, rắn bò vào nằm trong phòng ngủ, chó leo trên mái nhà, trăm tiếng chuột kêu, các loài dã thú tranh nhau vào nhà, trăm loại quỉ li mị, gọi đó là quái. Do thấy những điều lạ, nên sinh phiền não, do phiền não kết tập, nên bị chết yểu. Nếu có thể thụ trì, biên chép kinh này, lưu thông đọc tụng, lập tức dẹp sạch những điều quái gỡ trên, được sống lâu.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu, hết thảy người nam người nữ sau khi lớn, vì lòng thương yêu mà bị bệnh tâm. Tại vì sao? Khi người nam trưởng thành, có khi bị gọi đi lính, luật vua như vậy, mình không thoát khỏi, cha mẹ ở nhà nhớ nhung, nên gọi là bệnh tâm. Còn con gái khi trưởng thành, xuất giá theo chồng, mà bị coi thường, cha mẹ ở quê nhung nhớ, nên gọi là tâm bệnh. Vì tâm bệnh, sinh sầu lo khổ não, kết tập thành bệnh, do đó hiện đời bị đoản mạng. Nếu có thể biên chép, thụ trì kinh này, sẽ được sống lâu. Do oai lực của kinh, cuộc sống vợ chồng hòa thuận, bệnh tâm tiêu trừ.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai diệt độ, vào thời nhơ xấu, hết thảy chúng sinh không có tâm từ bi, giết hại sinh mạng, ăn nuốt mười thứ thịt của chúng sinh. Văn-thù con, hạng người ấy chẳng khác nào ăn thịt cha mẹ và lục thân quyến thuộc. Có khi vì giết hại mạng sống chúng sinh, làm hại đến thai nhi. Bởi nguyên nhân như vậy, hiện đời bị chết yểu. Giả sử những lúc vợ chồng làm chuyện mây mưa, bị quỉ dữ la-sát ăn mất bào thai, khiến không có con. Nếu có thể thụ trì, biên chép kinh này, liền khỏi khổ ấy.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai diệt độ, vào thời nhơ xấu, tất cả chúng sinh không biết mạng sống đời trước của mình. Nay tạm có thân người, cho là vui sướng, phỉ báng lẫn nhau, hoặc cậy quyền thế, đủ loại tâm xấu ác, coi rẻ tính mạng của kẻ khác, không tin kinh điển Đại thừa, ngã mạn. Hạng người như vậy, hiện đời bị quả báo chết yểu. Nếu có thể chí thành sám hối, điều phục tâm tính, biên chép, thụ trì, đọc tụng kinh này, nhờ năng lượng thiện lành, được mạng sống lâu dài, dẫu có bị bệnh, cũng không chết oan uổng (hoạnh tử).

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu, hết thảy chúng sinh, có người vâng lệnh vua, có người cha mẹ bảo đi ra nước ngoài hoặc qua đường nguy hiểm, để lo buôn bán, tìm của kiếm tiền, vì tài lợi mà ngã mạn cống cao, đánh cờ bạc, gần gũi dâm nữ, giao du với bạn xấu, không tuân lệnh vua, chẳng nhớ lời cha mẹ dạy, uống rượu mê sắc, táng thân mất mạng. Giả sử kiếm được tiền của, nhưng bị rượu làm điên loạn, không biết ngả nào nên đi, ngả nào nên tránh, cuối cùng bị giặc cướp hết tài sản, do đó hại đến tính mạng. Nếu có thể biên chép kinh này, phát nguyện rộng lớn, nơi mình ở không bị giặc cướp. Khởi tâm vui mừng, các loài thú độc không dám quấy nhiễu làm hại. Thân tâm an ổn, được nhiều của quí, nhờ năng lực của kinh, được sống lâu.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu, hết thảy chúng sinh, do gây tạo việc xấu ác, bị đọa vào địa ngục. Sau khi được thoát khỏi địa ngục, phải thọ thân súc sinh. Dẫu được làm người, sáu căn không đủ, đui điếc câm ngọng, tàn tật lưng gù, chịu thân người nữ, không biết đọc kinh. Giả sử được thân nam, vì nghiệp xấu ác, ngu si chậm lụt, không có khả năng đọc kinh Trường Thọ này, sinh tâm buồn rầu. Vì buồn rầu, gọi là bệnh tâm. Vì bị bệnh tâm, hiện đời đoản mạng. Nếu có thể nhờ bạn lành biên chép kinh này, sau đó thỉnh về. Từ khi nhờ chép đến lúc hoàn thành, phải một lòng cung kính, đội trên đầu đem về. Do năng lực thành kính, đạt được công đức vô lượng. Như thế nghiệp xấu ác, không còn chịu lại, hiện đời được sống lâu.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu. Nếu có chúng sinh, sau khi qua đời, từ một ngày đến 49 ngày, người sống tu tạo các công đức lành hồi hướng cho người chết, trong bảy phần công đức, người chết chỉ hưởng được một phần. Nếu khi người ấy còn sống, có thể sắp xếp việc nhà, trong vòng 49 ngày biên chép kinh này, đốt hương dâng hoa cúng dường, thỉnh Phật và thỉnh tăng, sắm sửa thức ăn chay tịnh. Công đức của việc làm này như cát sông Hằng, người ấy hiện đời được sống lâu, lìa xa sự thống khổ trong ba đường xấu ác. Còn sau khi chết, sẽ hưởng trọn bảy phần công đức do mình gây tạo khi còn sống đó.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu. Nếu có chúng sinh, bất hiếu ngũ nghịch, thiếu lòng từ bi, đối với cha mẹ vong ân chẳng yêu thương, mà lại yêu thương bà con. Lúc đó, có vị vua trời Hành Đạo dạo quanh bốn châu, âm nhạc vang rền, dẫn theo quyến thuộc, trong ba tháng trai, đến cõi Diêm-phù. Nếu có chúng sinh nào bị bệnh do ma quỉ gây ra, vua trời Hành Đạo trừ quỉ dữ, khiến bệnh được lành. Nhưng đối với những người bất hiếu, ganh tị, làm việc xấu ác, vua quỉ Hành Bệnh hà khí độc làm cho người ấy trúng các thứ bệnh dịch, lúc nóng lúc lạnh, sốt cao, tà ma quỉ độc, hoặc bị phong cùi. Nếu có thể một ngày, đốt hương rải hoa, thân tâm thanh tịnh, biên chép kinh này, cho đến bảy ngày, thỉnh Phật và tăng, trai tịnh đọc tụng, nhờ căn lành này, không bị bệnh dịch. Vì không bị dịch bệnh, nên được sống lâu.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu, chúng sinh phước mỏng, kiếp số sắp hết, xuất hiện bảy mặt trời. Nếu không xuất hiện bảy mặt trời, thì gặp người lãnh đạo vô đức, khiến trời nắng hạn, bao nhiêu cây cỏ, rừng rậm, tất cả ngũ cốc, mía nho hoa quả, đều bị chết khô. Nếu người lãnh đạo và tất cả nhân dân, có thể thụ trì đọc tụng kinh này, long vương Nan-đà, Bà-nan-đà… thương xót chúng sinh, phun nước làm mưa. Hết thảy rừng rậm, trăm loại ngũ cốc, cỏ cây, đều được tươi tốt. Chúng sinh nhờ oai lực kinh này, được sống lâu.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu, hết thảy chúng sinh, cân non đong thiếu, kiếm tiền phi nghĩa. Tội nghiệp ấy, sẽ bị đọa vào địa ngục. Khi ra khỏi địa ngục, phải thọ thân súc sinh, như tất cả cầm thú trâu, lừa, voi, ngựa, heo, chó, dê, ruồi, muỗi, rận, kiến… Nếu có đại Bồ-tát, vận lòng từ bi đối với loài súc sinh, trùng, kiến… đọc kinh này cho chúng nghe. Nương nhờ năng lực của kinh, loài nào cũng được giải thoát. Những chúng sinh này, bỏ thân này rồi, sinh về cõi trời hưởng phước. Còn nếu Bồ-tát nào, không có tâm thương yêu, không phát tâm giảng nói kinh này, người ấy chẳng phải đệ tử của Phật, là bạn của ma.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, vào thời nhơ xấu, hết thảy chúng sinh, sinh tâm khinh mạn không tin kinh điển, phá hủy Phật pháp. Nếu có nơi nào giảng pháp, không có tâm muốn nghe. Tội nghiệp này, hiện đời bị đoản mạng, đọa vào các địa ngục. Nếu có nơi giảng nói kinh này, người nào có thể đến nghe, hoặc khuyến hóa người khác cùng ngồi nghe. Người ấy là rường cột của Phật pháp, được vui trường thọ, không vào đường ác. Nếu ai muốn tụng đọc kinh này, thiết lập đạo tràng thanh tịnh, nơi đó nhỏ hay lớn đều được.

Lại nữa Văn-thù! Sau khi Như Lai thị hiện diệt độ, tất cả người nữ khi mang thai, giết hại sinh mạng, ăn các loại trứng chim, vì thiếu lòng từ, hiện đời bị quả báo đoản mạng, sinh sản khó khăn, do sinh sản khó, có thể nguy hại đến tính mạng, hoặc sinh ra oan gia, chẳng phải thiện tri thức. Nếu có thể phát nguyện rộng lớn, biên chép kinh này, liền sinh dễ dàng, không bị các điều chướng ngại, mẹ con an vui. Muốn con trai hay gái, đều theo chỗ mong cầu.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi:
– Nay Như Lai nói kinh Trường Thọ Diệt Tội 12 nhân duyên Phật tính thường trụ này, các Đức Phật ở quá khứ cũng đã từng nói. Nếu có chúng sinh nào thụ trì đọc tụng, được nhiều phước lợi, tuổi thọ được 120, khi bỏ thân này, không phải bị khổ gió đao xẻ thân và tất cả khổ. Do ngộ được Phật tính, được pháp thân chư Phật kim cang bất hoại, thanh tịnh cực kỳ, niệm niệm vững chắc, thường được Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, cỡi mây năm màu và voi trắng sáu ngà, cầm đài sen đón người niệm Phật. Sinh về nước Bất Động, tự nhiên an vui, không gặp phải tám nạn.

Văn-thù con! Chúng sinh ngu si, không biết chẳng hay, thọ mạng ngắn ngủi, như lửa nháng đá, như bọt nước, như tia chớp. Thế tại sao họ không sợ hãi? Vẫn tham đắm tiền của danh lợi? Vẫn chìm ngập trong dâm dật và uống rượu? Còn khởi tâm đố kị ganh tị? Sinh tử như thế, trôi chảy mãi vào biển lớn. Chỉ có chư Phật, Bồ-tát mới qua bến bờ kia, còn chúng sinh phàm phu cứ mãi trầm luân. Quỷ dữ vô thường đến bất cứ lúc nào, cho dù có vô lượng vô biên vàng bạc châu báu, xin đem chuộc mạng, cũng vô ích mà thôi.

Chúng sinh cần biết, quán xét thân này, rồi nghĩ rằng: “Thân như bốn con rắn độc, thường bị vô lượng vi trùng rúc rỉa. Thân này hôi thối, bị đoanh vây trong lao ngục tham dục. Thân này đáng ghét, chẳng khác chó chết. Thân này không sạch, chín lỗ thường chảy ra đồ dơ bẩn. Thân này như thành trì, quỉ la-sát bên trong. Thân này không bền chắc, sẽ bị diều hâu, chó ăn mổ. Hãy ý thức bỏ thân nhơ, cầu tâm Bồ-đề. Nên quán chiếu lúc bỏ thân này, mồ hôi toát ra, hai tay trống rỗng, đau đớn không chịu được. Khi đã dứt hơi, một ngày, hai ngày cho đến năm ngày, trương sình bầm tím, máu mủ chảy ra, ngay cả cha mẹ, vợ con cũng khiếp sợ. Đến khi xương vung vãi ra đất, các lóng đốt nằm khắp nơi, xương tay, đùi, sườn, sống, đầu, sọ… mỗi thứ mỗi nơi. Da thịt, ruột, gan, thận, tim, phổi… bị dòi rúc rỉa. Vậy sao khi còn sống có cái ngã (ta) xuất hiện? Lúc này, tiền bạc, châu báu, kho đụn lúc sinh tiền, đâu còn quan hệ gì đến ta?”

Nếu có chúng sinh, muốn thoát khỏi khổ ấy, chớ có tham đắm đất nước, vợ con, đầu mắt tủy não, biên chép kinh này, thụ trì đọc tụng 12 nhân duyên là tạng bí yếu của chư Phật, lưu thông cúng dường, luôn nhớ như thế, sẽ thành tựu tâm Tam-miệu-tam-bồ-đề (thành Phật), không điều gì có thể phá hoại, không bị chết yểu vì nạn hoạnh tử.

Khi Đức Phật nói 12 nhân duyên Phật tính thường trụ cho đại chúng, cả đại hội, Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời rồng tám bộ, người chẳng phải người, vua Ba-tư-nặc, cùng các quyến thuộc, số lượng đông nhiều, đều đắc tâm Vô thượng Bồ-đề, chứng Vô sinh pháp nhẫn, khen ngợi là điều chưa từng có, một lòng đảnh lễ, vui vẻ thực tập.

Kinh Phật Nói Về Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà-La-Ni.