Home » Tàng Kinh Các » Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội

Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội

Mục Tàng Kinh Các

Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội thuộc tập X58 (Tục tạng kinh), kinh số 1030, tổng cộng 1 quyển, – Thanh ‧Bành Tế Thanh Thuật, bản Việt dịch của Định Huệ

Tựa

Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Tất cả chúng sinh chẳng được gọi là giác, vì từ xưa đến nay, niệm niệm tiếp nối nhau chưa từng lìa niệm”. Niệm là bất giác. Phật là giác. Niệm Phật là dùng giác để thu phục bất giác, vào trong biển Chánh giác.

Hoa Nghiêm đủ tất cả Tam-muội của các đức Phật, nhưng trong đó niệm Phật là vua của tất cả Tam-muội.

“Đại” không có pháp nào hơn pháp này
“Phương” không có pháp nào hơn pháp này.
“Quảng” không có pháp nào hơn pháp này.

Cư sĩ Tri Qui tu niệm Phật mười mấy năm, lại còn đi sâu vào biển nghĩa Hoa Nghiêm. Vừa rồi, ông qua Trấn Giang, có đưa cho tôi xem bộ Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam-muội do ông trứ tác. Số chữ trong các trứ tác của các ngài Thanh Lương, Táo Bá nhiều như số cát sông Hằng, được ông diễn lại trong năm sáu nghìn lời, mới biết Sớ Sao, Hiệp Luận chẳng phải nhiều, luận này chẳng phải ít. Vả lại, lúc ngài Táo Bá tạo luận, toàn phẩm Hạnh Nguyện chưa được truyền đến Trung Quốc, nên đối với vấn đề Tịnh độ ở phương khác, Ngài có ý kiến khác biệt. Khi phẩm ấy đầy đủ, được lưu hành thì phải đợi đến bộ Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam-muội này, mới phát huy được đầy đủ ý nghĩa. Chắc nhờ thần lực của đức Phật A-di-đà gia bị, nên Cư sĩ mới tùy nghi thuyết pháp, hướng dẫn mọi người.

Thiết nghĩ: Người tu Tịnh độ, niệm Phật chuyển hóa máu nhơ phiền não thành sữa pháp trong sạch. Do niệm Phật mà đắc Tam-muội, đó là niệm quy về vô niệm, chuyển hóa sữa sống thành thục lạc. Trụ trong Tam-muội, tinh tấn niệm Phật, đó là vô niệm mà niệm, biến thục lạc thành sinh tô. Do Niệm Phật Tam-muội trải qua khắp tất cả Tam-muội, rồi sau đó đầy đủ Niệm Phật Tam-muội, biến sinh tô thành thục tô. Vì Niệm Phật Tam-muội bao gồm hết vô lượng vô biên bất khả thuyết Tam-muội, vì vô lượng vô biên bất khả thuyết Tam-muội gom vào Niệm Phật Tam-muội, tức Phật tức niệm, phi niệm phi Phật, thần thông vi diệu chẳng thể nghĩ bàn, là chuyển thục tô thành đề hồ.

Nếu chẳng chuyển sữa thành lạc được thì tuy niệm Phật mà chẳng thể đắc môn Tam-muội. Nếu chẳng biến lạc thành tô được thì chẳng thể dùng Niệm Phật Tam-muội thu gom hết tất cả bất khả thuyết môn Tam-muội. Nếu chẳng chuyển tô lạc thành đề hồ được thì chẳng thể dùng một môn niệm Phật vượt thẳng lên hàng Thập địa, Đẳng giác, đắc trí Đại viên cảnh, tọa chứng vô thượng Bồ-đề.

Niệm Phật không có sai biệt, nhưng Tam-muội có cạn có sâu. Sự cạn sâu của Tam-muội là do sự sai biệt của người niệm Phật.

Văn Trị tôi, từ tuổi đôi mươi đã thích tu Thiền, song từ tuổi bốn mươi về sau mới kiêm tu niệm Phật. Những năm gần đây, tôi lấy niệm Phật làm Thiền, Thiền Tịnh song tu cho đến lúc tuổi già. Tôi đâu dám đem sự hiểu biết của mình ra chất vấn Cư sĩ, mà chỉ ước mong được Ngài chỉ giáo.

Tháng 03, mùa Xuân năm Giáp Thìn (1784)
Vô Dư học nhân Vương Văn Trị soạn
Luận Hoa Nghiêm niệm Phật Tam – muội
Đệ tử Bồ-tát giới Bành Tế Thanh thuật

Pháp môn niệm Phật đều được các kinh ngợi khen, nhưng nói chung, đại khái có hai đường lối: Phổ niệm và Chuyên niệm.

Như kinh Quán Phật Tướng Hải, kinh Phật Bất Tư Nghị Cảnh Giới… chỉ nói đến Phổ niệm. Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, kinh A-súc Phật, kinh Vô Lượng Thọ… đặc biệt nói về Chuyên niệm. Nay, kinh Hoa Nghiêm này chủ trương nhất đa tương nhập, chủ bạn giao dung, tức tự tức tha, cũng Chuyên cũng Phổ. Nay xin trình bày sơ lược năm môn xuyên suốt toàn bộ kinh này:

01. Môn niệm pháp thân Phật để chỉ thẳng vào tự tánh của chúng sinh.
02. Môn niệm công đức Phật sinh ra báo thân và hóa thân của các đức Phật.
03. Môn niệm danh tự Phật để thành tựu phương tiện thanh tịnh hay nhất.
04. Môn niệm Phật Tỳ-lô-giá-na để chóng nhập pháp giới Hoa Nghiêm.
05. Môn niệm Phật A-di-đà Phật ở thế giới Cực Lạc để viên mãn đại nguyện Phổ Hiền.

Cuối cùng, dùng cách hỏi đáp để giải quyết các điều nghi, hễ ai được thấy nghe đều quay về đạo Nhất thừa.

1. Niệm pháp thân Phật để chỉ thẳng vào tự tánh của chúng sinh

Tánh sẵn có của chúng ta lặng lẽ sáng suốt, trùm khắp cõi nước nhiều như số bụi nhỏ. Chư Phật không có sở chứng nào khác hơn là toàn chứng tự tánh của chúng sinh.

Phẩm Như Lai Xuất Hiện nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát phải nên biết tự tâm, niệm niệm thường có Phật thành Chánh giác. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai chẳng lìa tâm này mà thành Chánh giác. Như tự tâm, tất cả tâm chúng sinh cũng vậy, đều có Như Lai thành Đẳng chánh giác, rộng lớn trùm khắp, không chỗ nào không có, chẳng lìa chẳng đoạn, không có dừng nghỉ ”.

Lại nói: “Không có một chúng sinh nào mà không đủ trí huệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng điên đảo chấp trước mà không thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí liền được hiện tiền”.

Thế nào là lìa vọng tưởng? Phải biết sự điên đảo chấp trước của chúng sinh toàn là pháp thân chư Phật. Vì sao? Vì điên đảo chấp trước thường tự tịch diệt. Từ niềm tin này vào thì pháp thân chư Phật không chỗ nào không hiện, thanh tịnh viên mãn, trong đó không dung nạp cái gì khác, niệm niệm chẳng mê, tâm tâm không trụ. Từ đây, khởi hạnh đầy đủ đại bi, rốt ráo đại từ, không chấp thân, không chấp tu, không trụ pháp, trải qua các giai vị Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa và địa thứ mười một chẳng lìa đương niệm, nhân quả thành tựu viên mãn. Cho nên nói: “Vừa phát tâm Bồ-đề, liền thành Chánh giác”. Như phẩm Hiền Thủ, phẩm Sơ Phát Tâm Công Đức nói cặn kẽ về việc này. Niệm Phật như vậy có thể thấy thân Như Lai ở khắp mọi nơi. Trong phẩm Quang Minh Giác, đức Thế Tôn phóng trăm ức quang minh từ ba nghìn đại thiên thế giới này chiếu khắp mười phương, cho đến tận pháp giới hư không giới, rồi ngài Văn-thù nói kệ tụng, dạy người siêu việt các thứ kiến chấp hữu vô, nhất dị, sinh diệt, khứ lai, quán Như Lai ở khắp nơi. Đây là đi vào niềm tin đúng đắn về đức Phật.

Phẩm Xuất Hiện cũng nói: “Các vị Đại Bồ-tát chẳng nên thấy Như Lai nơi một pháp, một sự, một thân, một cõi nước, một chúng sinh mà phải nên thấy Như Lai ở khắp mọi nơi. Ví như hư không đến khắp tất cả chỗ sắc, phi sắc, chẳng phải đến, chẳng phải chẳng đến. Vì sao? Vì hư không không có thân. Thân Như Lai cũng vậy, ở khắp tất cả mọi nơi, mọi chúng sinh, mọi pháp, mọi cõi nước, chẳng phải đến, chẳng phải chẳng đến. Vì sao? Vì thân Như Lai là không có thân, vì độ chúng sinh cho nên Như Lai thị hiện thân”. Lại nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát dùng trí huệ không chướng ngại, biết cảnh giới tất cả thế gian là cảnh giới Như Lai; biết cảnh giới tất cả ba thời gian, cảnh giới tất cả cõi nước, cảnh giới tất cả pháp, cảnh giới tất cả chúng sinh, cảnh giới chân như không sai biệt, cảnh giới pháp thân không chướng ngại, cảnh giới thật tế không giới hạn, cảnh giới hư không không phần lượng, cảnh giới không cảnh giới đều là cảnh giới Như Lai. Này Phật tử! Như cảnh giới của tất cả thế gian vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Như cảnh giới của tất cả ba thời gian vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng, cho đến cảnh giới không cảnh giới vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Như tất cả chỗ của cảnh giới không cảnh giới không có, tất cả chỗ của cảnh giới Như Lai cũng không có như vậy”.

Vì sao? Vì trí huệ của tự tâm vốn không chướng ngại, vì trí huệ không chướng ngại tức là cảnh giới Như Lai. Đây gọi là niệm tự tánh Phật, cũng gọi là Tự tánh niệm Phật. Tự tánh niệm Phật là không có chủ thể niệm Phật ở ngoài Phật để niệm Phật. Niệm tự tánh Phật là không có Phật ở bên ngoài làm đối tượng cho mình niệm. Thâm nhập pháp môn này thì rốt cuộc Phật sở niệm chẳng phải là cứu cánh, vì chẳng biết pháp thân là tự tánh rồi cho là riêng có Phật. Lúc đi vào pháp môn này, công đức của một niệm rộng lớn hơn hư không, không có hạn lượng.

2. Niệm công đức Phật để sinh ra báo thân và hóa thân Phật

Tất cả Như Lai xứng với lượng pháp giới hiện các loại thân, bày vô tận trang nghiêm, làm vô biên Phật sự, các Ngài đều lấy trí Phổ quang minh làm thể. Như phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm ghi: “Trí đi vào ba thời gian thảy đều bình đẳng, thân các Ngài đầy khắp thế gian, tiếng thuyết pháp của các Ngài tùy thuận chúng sinh trong khắp các cõi nước ở mười phương, ví như hư không bao trùm các hình tượng, đối với mọi cảnh giới không có chút phân biệt. Vì trí này không thể nghĩ bàn, không có cục bộ, vì đầy đủ được các lực dụng như thế nên dù ở địa vị phàm phu mà nghe pháp ngộ lý thì vẫn đắc căn bản trí. Nếu như chẳng thể dựa vào trí phát khởi sự tu hành viên tu viên chứng, rơi vào cảnh giới Nhị thừa Thanh văn thì đại dụng của chư Phật chẳng được hiện tiền”.

Thế nên, sáu phẩm của hội đầu tiên trong kinh Hoa Nghiêm toàn trình bày quả đức Như Lai. Ba mươi hai phẩm của hội thứ hai đến hội thứ tám nói đến giai vị tiến tu thẳng đến giác ngộ viên mãn. Tóm lại, chẳng ra ngoài sáu vị nhân quả để người tu hành mở rộng trí huệ thực hành các hạnh, chẳng chấp không một cách lệch lạc, để trang nghiêm cõi nước Phật. Nhưng một phẩm Phổ Hiền Tam-muội trong hội đầu tiên, trình bày chủ yếu về toàn thể Phật Hoa Nghiêm. Kinh nói Bồ-tát Phổ Hiền nhập vào Tam-muội tạng thân Tỳ-lô-giá-na của tất cả các đức Phật. Tam-muội này dựa vào pháp giới xứng tánh, trùm khắp tất cả cõi nước nhiều như số bụi nhỏ, hiện thân khắp nơi giáo hóa chúng sinh. Chẳng bỏ trần lao, hưng khởi đại dụng, theo trình độ chúng sinh mà nói phẩm Thế Giới Thành Tựu, nói phẩm Hoa Tạng Thế Giới để chỉ bày các cõi nước tịnh, uế; tất cả đều chỉ là tâm. Người thâm nhập vào biển đại nguyện Phổ Hiền thì thấy chỗ nào cũng đều là cõi nước Phật, lúc nào cũng đều là Phật sự. Phẩm Phổ Hiền Tam-muội này quán triệt toàn kinh, tìm trong văn kinh Hoa Nghiêm sẽ tự thấy. Đến phẩm đồng tử Thiện Tài đi tham vấn các vị Thiện tri thức từ Tỳ-kheo Đức Vân đến trưởng giả Giải Thoát, Cư sĩ Bệ-sắc-chi-la, các Ngài đều nhờ một môn niệm Phật mà được giải thoát. Như ngài Đức Vân nói: “Tôi được năng lực quyết định thông hiểu tự tại, con mắt tín tâm thanh tịnh, ánh sáng trí huệ chiếu sáng quán sát hết các cảnh giới không bị chướng ngại, con mắt sáng suốt quán thấy khắp tất cả, đầy đủ hạnh thanh tịnh đi đến tất cả cõi nước ở khắp mười phương, cung kính cúng dường tất cả các đức Phật, thường niệm tất cả chư Phật Như Lai, tổng trì tất cả chánh pháp của chư Phật, thường thấy tất cả các đức Phật ở khắp mười phương”. Từ câu: Tôi được năng lực quyết định thông hiểu tự tại trở xuống là nói về niệm Phật pháp thân. Từ câu: Đi đến tất cả cõi nước ở khắp mười phương trở xuống là nói về niệm Phật báo thân và hóa thân.

Tùy thuận pháp thân khởi ra báo thân và hóa thân. Vì pháp thân vô lượng nên báo thân và hóa thân được cảm ứng cũng vô lượng. Cho nên, đoạn văn kinh tiếp theo nói: “Thấy một đức Phật, hai đức Phật, mười đức Phật, trăm đức Phật, nghìn đức Phật, trăm nghìn đức Phật cho đến bất khả thuyết, bất khả thuyết đức Phật ở trong cõi nước Phật nhiều như số bụi nhỏ ở phương Đông. Như phương Đông, các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương cạnh, hai phương trên, dưới cũng đều thấy như vậy”. Đây gọi là pháp môn do ức niệm cảnh giới của tất cả các đức Phật mà ánh sáng trí huệ thấy tất cả chư Phật. Chư Phật không có cảnh giới nào khác, các Ngài chỉ dùng ánh sáng trí huệ tùy thuận chúng sinh mà làm Phật sự. Người niệm Phật ở đây cũng vậy, do tín giải đầy đủ nên có thể nhập vào trí huệ Phật, do quán hạnh đầy đủ nên có thể thấy ánh sáng Phật. Ánh sáng trí huệ chẳng từ người khác mà được, chỉ nhờ nhân duyên mà ánh sáng trí huệ hiển phát. Văn kinh Hoa Nghiêm đoạn tiếp theo sau lại mở ra hai mươi mốt môn niệm Phật tận mười phương, ba thời gian và mỗi chỗ trên đầu mỗi sợi lông, Phật xuất hiện nơi thế gian trong mỗi niệm, Phật thuyết pháp trong mỗi niệm, Phật diệt độ trong mỗi niệm, đều lấy vô biên trí hạnh của tự tâm làm thể, vốn đủ ba thân (pháp thân, báo thân và hóa thân) một niệm thích ứng, gọi là Niệm Phật Tam-muội. Nhập vào môn Tam-muội này thì có thể bao gồm hết tất cả các môn Tam-muội.

Trưởng giả Giải Thoát nói: “Tôi vào ra trong môn Giải thoát trang nghiêm vô ngại của Như Lai, thấy các đức Như Lai nhiều như số bụi nhỏ trong mười cõi nước Phật ở mười phương. Các đức Như Lai ấy không đi tới đây và tôi cũng chẳng đến chỗ các đức Như Lai kia, hoặc tôi muốn thấy đức Như Lai A-di-đà ở thế giới phương Tây thì tùy ý liền thấy, hoặc tôi muốn thấy đức Như Lai Kim Cương Quang Minh ở thế giới Chiên-đàn, đức Như Lai Bảo Quang Minh ở thế giới Diệu Hương, đức Như Lai Bảo Liên Hoa Quang Minh ở thế giới Liên Hoa, đức Như Lai Tịch Tịnh Quang ở thế giới Diệu Kim, đức Như Lai Bất Động ở thế giới Diệu Hỉ, đức Như Lai Sư Tử ở thế giới Thiện Trụ, đức Như Lai Nguyệt Giác ở thế giới Cảnh Quang Minh, đức Như Lai Tỳ-lô-giá-na ở thế giới Bảo Sư Tử Trang Nghiêm, tôi đều thấy hết các đức Như Lai như thế. Tôi biết tất cả các đức Phật cho đến tâm tôi đều như mộng. Tôi biết tất cả các đức Phật cho đến tâm tôi thảy đều như âm vang. Tôi biết như thế, ức niệm như thế, đức Phật được tôi thấy đều do tâm tôi”. Giải thoát trang nghiêm vô ngại nghĩa là siêu việt tất cả tướng, thành tựu tất cả tướng. Tuy như mộng như huyễn nhưng cũng không hoại diệt các cảnh mộng huyễn. Nếu người không nhập vào pháp môn mộng huyễn này thì như các ngài Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên… dù đang ở trong rừng Thệ-đa mà vẫn chẳng thấy cảnh giới thần lực Như Lai, vì thiện căn bất đồng.

Cư sĩ Bệ-sắc-chi-la nói: “Lúc mở tháp của đức Như Lai Chiên Đàn Tọa, tôi đắc Tam-muội tên là Phật Chủng Vô Tận. Tôi nhập Tam-muội này, tùy theo thứ tự của Tam-muội mà tôi thấy tất cả đức Phật ở thế giới này, đó là Phật Ca-diếp, Phật Câu-na-hàm-mâu-ni, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Thi-khí, Phật Tì-bà-thi, Phật Phất-sa, Phật Vô Thượng Thắng, Phật Vô Thượng Liên Hoa, các đức Phật kể trên làm thượng thủ. Ở trong khoảnh khắc một niệm, tôi được thấy trăm đức Phật, nghìn đức Phật, trăm nghìn đức Phật cho đến các đức Phật nhiều như số bụi nhỏ trong bất khả thuyết, bất khả thuyết thế giới”. Phật chủng vô tận này đều do nguyện hạnh Phổ Hiền và đều lấy bốn câu không có tận để thành tựu. Đó là: Hư không giới tận, chúng sinh giới tận, chúng sinh nghiệp tận, chúng sinh phiền não tận, nguyện của tôi mới tận, nhưng vì hư không giới cho đến phiền não không có tận, thế nên Phật chủng không có tận. Vì thế nói: “Tôi biết tất cả các đức Như Lai ở khắp mười phương rốt cuộc không có Bát-niết-bàn”. Thế nên, biết báo thân và hóa thân của các đức Phật bao gồm tất cả số. Như phẩm A-tăng-kỳ nói: “Khắp cả thời gian”, phẩm Như Lai Thọ Lượng nói: “Khắp cả không gian”, phẩm Bồ-tát Trụ Xứ nói: “Niệm Phật như vậy, hai bên bình đẳng, sinh diệt nhất như, tận kiếp vị lai không có gián đoạn.

3. Niệm danh tự Phật để thành tựu phương tiện hay nhất

Pháp thân không có hình tướng, giả mượn danh tự để trình bày. Báo thân và hóa thân vô biên nhờ danh tự mà được biết đến đầy đủ. Bài kệ tán trong phẩm Tu-di:

“Thà chịu khổ địa ngục
Được nghe danh tự Phật
Không hưởng vô lượng vui
Không nghe danh tự Phật”.

Sở dĩ trong vô số kiếp ở đời quá khứ, chịu khổ trôi lăn trong sinh tử vì chẳng được nghe danh tự Phật. Chỉ cần nghe được danh tự Phật là đã trồng nhân tốt, huống chi luôn luôn niệm liên tục.

Như trong kinh Văn-thù Bát-nhã ghi: “Muốn nhập Nhất Hạnh Tam-muội, phải ở nơi vắng vẻ, bỏ các loạn tưởng, chẳng chấp tướng mạo, buộc tâm vào một đức Phật, chuyên xưng danh tự, tùy theo Phật ở hướng nào, ngồi thẳng quay mặt về hướng ấy buộc niệm tương tục vào một đức Phật, thì ở trong niệm đó thấy được các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì sao? Vì công đức niệm một đức Phật bằng công đức niệm vô lượng đức Phật”.

Kinh A-di-đà cũng lấy chấp trì danh hiệu làm chánh nhân vãng sinh. Cho nên biết công đức của danh tự không thể nghĩ bàn. Như bài kệ tán trong phẩm Đâu-suất:

“Lấy Phật làm cảnh giới
Chuyên niệm không ngừng nghỉ
Người này được thấy Phật
Số Phật bằng với tâm”.

Phẩm Hiền Thủ nói:

“Nếu thường niệm Phật, tâm bất động
Ắt thường trông thấy vô lượng Phật
Nếu thường trông thấy vô lượng Phật
Ắt thấy Như Lai thể thường trụ”.

Bài kệ trước luận về trì danh nên nói “số”, bài kệ sau gồm cả báo thân và hóa thân để thấu suốt pháp thân nên nói “vô lượng”. Tuy nhiên, mọi người chỉ biết số hữu lượng mà không biết số siêu việt lượng, biết danh tự của tức số mà chẳng biết danh tự của siêu việt số, biết danh tự của siêu việt số nên suốt ngày niệm mà chưa từng niệm, biết số của siêu việt lượng nên niệm một đức Phật tức gồm hết tất cả Phật.

Phẩm Tùy Hảo Quang Minh ghi: “Như ta nói ngã mà chẳng chấp ngã, chẳng chấp ngã sở. Tất cả chư Phật cũng vậy, tự nói là Phật nhưng chẳng chấp ngã và ngã sở”.

Nhưng người mới vào môn này ắt phải dựa vào số, hằng ngày cần phải hạn định khóa trình, từ một đến vạn, từ vạn đến ức, niệm chẳng rời Phật, Phật chẳng khác tâm, như trăng ở trong nước mà trăng chẳng phải ở trong nước; như xuân ở tại cành hoa mà xuân chẳng phải ở ngoài cành hoa. Niệm Phật như vậy thì danh tự tức pháp thân, vì tánh của danh tự chẳng thể thủ đắc. Pháp thân tức danh tự vì pháp thân hiện hữu ở khắp mọi nơi, cho đến báo thân và hóa thân cũng chẳng khác danh tự. Cũng vậy, danh tự chẳng khác báo thân và hóa thân. Cho nên, phẩm Như Lai Danh Hiệu nói: “Danh hiệu của một đức Như Lai đồng đẳng với pháp giới hư không giới, tùy theo tâm chúng sinh mà mỗi người đều thấy biết khác nhau”. Như thế, đủ biết các danh tự của thế gian đều là danh tự Phật, chỉ cần nêu ra bất cứ một danh tự Phật nào cũng đều bao gồm hết danh tự của thế gian.

Phẩm Tỳ-lô-giá-na viện dẫn các đức Phật quá khứ có danh tự bất đồng, nhưng chỉ cần dùng một danh tự Tỳ-lô là bao gồm hết, vì tất cả các đức Phật đều có tạng thân Tỳ-lô xưa nay không khác. Như vậy, niệm Phật, thọ trì danh tự một đức Phật thì gồm thu pháp giới. Danh tự là toàn pháp giới nên toàn pháp giới gồm thu, chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai, cũng chẳng phải phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn hướng cạnh, phương trên, phương dưới, mười phương, ba thời gian không sót trong lúc đang niệm, chẳng trải qua một Sát-na (thời gian cực ngắn) đã thành Phật rồi.

4. Niệm Phật Tỳ-lô-giá-na để chóng nhập vào pháp giới Hoa Nghiêm

Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm ghi các bài kệ tụng của các vị Bồ-tát và Trời, Rồng, quỷ thần ở khắp mười phương, mỗi vị đều nói ra pháp môn của mình chứng đắc, rồi dùng quả địa Như Lai phát khởi tín giải cho người để họ nhập vào Niệm Phật Tam-muội. Từ đó, nói phẩm Như Lai Hiện Tướng cho đến các phẩm Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, mỗi phẩm đều có các vị Đại Bồ-tát và các vị thí chủ ở khắp mười phương nói kệ tán Phật. Rồi ở phẩm Thập địa, mỗi khi trải qua một địa đều nói: “Chẳng rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”. Thế nên, biết thứ lớp các giai vị tuy khác nhưng giai vị nào cũng lấy niệm Phật làm bản hạnh. Phật với Phật đạo đồng, nên một Tỳ-lô bao gồm hết. Vì thế, một môn Thường tùy Phật học trong mười nguyện Phổ Hiền nói: “Như đức Như Lai Tỳ-lô-giá-na ở thế giới Ta-bà này, từ lúc mới phát tâm tinh tấn không lui sụt, đem bất khả thuyết, bất khả thuyết thân mạng bố thí cho đến thành Đại bồ-đề, nhập Niết-bàn, tôi đều theo học tất cả các hạnh như thế”.

Do bản sự của Ngài ở địa vị tu nhân rộng lớn vô biên không thể nghĩ bàn, cho nên cảm được báo thân và hóa thân cũng rộng lớn vô biên không thể nghĩ bàn. Người tu hành thật sự có được tín giải vững vàng thì biết tất cả Phật chẳng rời tự tánh, rồi khởi tâm mạnh mẽ, phát tâm gánh vác thì không khác chi đức Bổn sư lúc mới phát tâm.

Dạ thần Tịch Tịnh Âm Hải nói: “Tôi được môn giải thoát sinh ra Hỉ Trang Nghiêm rộng lớn trong mỗi niệm, rồi có thể nhập vào biển pháp giới an lập nhiều như số bụi nhỏ trong mười bất khả thuyết, bất khả thuyết cõi nước Phật, thấy các hạt bụi nhỏ trong tất cả cõi Phật của biển tất cả pháp giới an lập ấy. Trong mỗi hạt bụi nhỏ, có cõi nước Phật nhiều như số bụi nhỏ của mười bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước Phật. Mỗi một cõi nước đều có đức Tỳ-lô-giá-na ngồi đạo tràng, trong mỗi niệm thành Đẳng chánh giác, hiện các thần biến, mỗi thần biến được hiện ra đều khắp tất cả biển pháp giới.

Dạ thần Khai Phu Thụ Hoa nhập vào môn giải thoát sinh ra Hỉ Quang Minh rộng lớn, nhớ lại và đều thấy rõ hết các hạnh tu hành ở quá khứ của đức Tỳ-lô-giá-na.

Thần Diệu Đức Viên Mãn đắc môn giải thoát tự tại, thọ sinh nhập vào biển vô lượng thọ sinh của đức Tỳ-lô-giá-na ở vô lượng cõi Phật, trong mỗi hạt bụi của tất cả thế giới thị hiện thọ sinh thường không gián đoạn”.

Như vậy, niệm Tỳ-lô-giá-na thì ngay nơi niệm là Phật, ngay nơi Phật là niệm. Tận mười phương hư không cho đến nhỏ như đầu cây kim, hạt cải không có chỗ nào không phải là pháp giới Tỳ-lô. Đây gọi là niệm Phật pháp giới, cũng gọi là niệm khắp tất cả Phật. Sở dĩ, đồng tử Thiện Tài đầu tiên tham Đức Vân liền được nghe pháp môn niệm Phật, cuối cùng đồng tử Thiện Tài được Bồ-tát Phổ Hiền nói kệ ngợi khen công đức thù thắng của Như Lai và dạy người tín giải, y như cũ chẳng rời pháp môn niệm Phật. Trước sau pháp giới không còn hai đế chân tục. Kệ rằng:

“Hoặc thấy cõi này đẹp vô cùng
Được Phật nghiêm tịnh vô lượng kiếp
Đấng tối thắng Tỳ-lô-giá-na
Từ trong giác ngộ thành Chánh giác.
Hoặc thấy đức Phật Vô Lượng Thọ
Được Bồ-tát Quán Tự Tại nhiễu quanh
Đều đã trụ giai vị Quán đảnh
Đầy cả thế giới khắp mười phương”.

Và nói:
“Hoặc thấy Thích-ca thành Phật đạo
Đã trải số kiếp chẳng nghĩ bàn
Hoặc thấy các vị thành Bồ-tát
Đang làm lợi ích cho chúng sinh
Hoặc thấy Như Lai Vô Lượng Thọ
Thọ ký cho các vị Bồ-tát
Sẽ thành Đại đạo sư vô thượng
Được bổ xứ vào cõi An Lạc”.

Thế nên, biết pháp giới của các đức Phật dung nhiếp hết, toàn thể là Di-đà, Cực Lạc Giá-na chẳng rời Hoa Tạng, tùy theo tâm chúng sinh mà mỗi người thấy chẳng đồng nhau, nhưng vì Phật xưa nay thường bất động, cho nên quyển cuối của bộ kinh Hoa Nghiêm, lấy hồi hướng Cực Lạc làm chỗ chung cuộc.

5. Niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc viên mãn đại nguyện Phổ Hiền

Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện ghi: “Người muốn thành tựu môn công đức Như Lai, cần phải tu mười hạnh nguyện rộng lớn:

01. Lễ kính chư Phật.
02. Ngợi khen Như Lai.
03. Rộng tu cúng dường
04. Sám hối nghiệp chướng
05. Tùy hỉ công đức
06. Thỉnh chuyển pháp luân
07. Thỉnh Phật trụ thế
08. Thường tùy Phật học
09. Hằng thuận chúng sinh
10. Đều hồi hướng hết”.

Kinh Hoa Nghiêm này chuyên trình bày cảnh giới Tỳ-lô, tại sao phải lấy Cực Lạc làm chỗ quy hướng?

Bởi vì, một danh hiệu của A-di-đà là Vô Lượng Quang, mà Tỳ-lô-giá-na cũng được dịch ra chữ Hán là Quang Minh Biến Chiếu, vì đồng một thể, vì chẳng phải đến, đi, vì ở trong nhất thể cũng không ngại đến, đi. Như luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Chúng sinh mới học pháp này muốn cầu chính tín, nhưng tâm họ yếu đuối, vì trụ ở thế giới Ta-bà không thể thường gặp chư Phật, hầu hạ cúng dường, ý muốn thoái lui. Người ấy nên biết Như Lai có phương tiện thù thắng nhiếp hộ tín tâm, đó là chuyên niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc phương Tây, hồi hướng căn lành đã tu tập, nguyện cầu sinh về thế giới kia thì được vãng sinh, vì thường được thấy Phật nên không bao giờ lui sụt”.

Vì báo độ của đức Tỳ-lô, hàng Nhị thừa và phàm phu không có phần được tiếp dẫn. Nhưng Cực Lạc thì có chia ra làm chín phẩm, mọi loài đều được tham dự. Một khi được vãng sinh, cắt ngang dòng sinh tử, đủ thấy sự hơn kém giữa Ta-bà và Cực Lạc. Các kinh đã nói cặn kẽ, ở đây không cần phải ghi lại đầy đủ.

Nhưng kinh khác chỉ dạy hoặc nói “mười niệm”, hoặc nói “một ngày cho đến bảy ngày”, hoặc quán “thân Phật một trượng sáu cho đến sáu mươi vạn ức Na-do-tha hằng hà sa Do-tuần”. Tóm lại, chẳng ra ngoài số lượng. Chưa bằng kinh Hoa Nghiêm này, một niệm quán khắp dọc suốt ba thời gian, ngang trùm mười phương hư không. Ngay lúc mới phát tâm liền siêu việt số lượng, có được nhân thanh tịnh hết sức thù thắng. Do Phật A-di-đà dùng bốn mươi tám lời nguyện tiếp nhận khắp chúng sinh cùng với nguyện vương này thể hợp hư không, mảy may không cách biệt. Thế nên, chẳng đợi thời gian, chẳng dời nơi chốn, nhậm vận vãng sinh, trở lại đồng với cái sẵn có.

Văn sau nói: “Đến rồi, thấy các vị Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi, Phổ Hiền, Quán Tự Tại, Di-lặc v.v… cùng nhau nhiễu quanh đức Phật A-di-đà”. Văn-thù, Phổ Hiền chẳng rời cõi Ta-bà này mà hiện thân ở phương kia, tùy theo tâm chúng sinh, niệm niệm xuất hiện. Vì thế, biết Phật A-di-đà ở trong nước Cực Lạc, thường chuyển kinh Hoa Nghiêm này không lúc nào ngừng nghỉ.

Lại nữa, pháp môn niệm Phật này, nếu chẳng phải diệu trí quán sát thì không thể nào rõ biết được cái nhân thanh tịnh sẵn có đủ trong tâm ta, cho nên đầu tiên là Văn-thù. Nếu chẳng phải đại nguyện trang nghiêm thì không thể nào viên mãn được cái quả thanh tịnh sẵn có đủ trong tâm ta, cho nên kế đó là Phổ Hiền, rồi Quán Âm, Di- lặc, một vị sẽ được bổ xứ thành Phật ở nước Cực Lạc. Một vị sẽ được bổ xứ thành Phật ở cõi Ta-bà. Hai vị Thánh đồng tụ hội để chứng tỏ Lạc Bang và Hoa Tạng chung một, không hai. Nhưng ngài Di-lặc nhờ đế quán mười phương duy thức, thức tâm tròn sáng, nhập viên thành thật, đấy là chính nhân của Tịnh độ. Quán Âm nhờ như huyễn văn huân vô tác diệu lực mà vào khắp cõi nước thành tựu Bồ-đề, đấy là cực quả của Tịnh độ.

Văn sau nói: “Người ấy tự thấy sinh trong hoa sen, được Phật thọ ký. Được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm nghìn vạn ức Na-do-tha kiếp dùng sức trí huệ, tùy theo tâm chúng sinh mà làm lợi ích, chẳng bao lâu sẽ ngồi tòa Bồ-đề đạo tràng, hàng phục ma quân, thành Đẳng chánh giác, chuyển pháp luân vi diệu, khiến cho chúng sinh trong các cõi nước Phật nhiều như số bụi nhỏ phát tâm Bồ-đề, tùy theo căn tánh của họ mà giáo hóa thành thục cho đến tận nhiều kiếp ở đời vị lai làm nhiều lợi ích cho tất cả chúng sinh”.

Toàn bộ kinh Hoa Nghiêm đến đây kết thúc, các người có trí phải cương quyết tin tưởng tiến vào, một niệm lơ là thì luân hồi vô tận. Than ôi! Khổ thay!

Phương pháp để giải quyết các điều nghi

Hỏi: Năm môn kể trên, nên từ một môn mà vào hay vào cả năm môn?

Đáp: Bậc thượng căn trí huệ bén nhạy, liễu ngộ được tự tánh Di-đà, toàn hiển duy tâm Tịnh độ, nói pháp thân là bao gồm hết tất cả. Nhưng lý thì liền ngộ mà sự thì phải trừ khử dần dần. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói, hàng Thập trụ sơ tâm liền đồng với chư Phật. Nhưng năm giai vị tiến tu, không giai vị nào không hướng đến Bồ-đề mà chưa đến Diệu giác. Thứ bậc các giai vị rõ ràng, cuối cùng đến Thập địa, nhờ sức đại nguyện ở trong một niệm thấy hàng trăm đức Phật, hàng nghìn đức Phật cho đến hàng trăm nghìn Na-do-tha đức Phật. Theo từng giai vị mà thấy đức Phật có sai khác.

Người tu hành ở cõi Ta-bà này, dẫu cho có khả năng hàng phục được hoặc nghiệp, phát ngộ, nhưng chưa chứng vô sinh cũng đâu thoát khỏi phải thọ thân đời sau. Nếu chẳng nương nhờ sức Phật thì công hạnh khó vẹn toàn, mà cần phải đợi hồi hướng Lạc bang, được Phật thọ ký, gột sạch hết các tập khí tàn dư, thành tựu viên mãn nguyện vương. Đây là môn vượt thoát, là con đường diệu trang nghiêm.

Nếu như chưa sáng tỏ việc hướng thượng, chưa phá vỡ nghi tình thì rất cần phải chuyên trì danh hiệu đức Phật A-di-đà, cung kính siêng năng phát nguyện như con nhớ mẹ, lấy cái chết làm kỳ hạn. Thêm vào đó, huân tu giáo quán giúp cho sự phát triển trí huệ thù thắng, cảm ứng đạo giao thì công tu mới không uổng phí. Điều này hoàn toàn trông cậy vào một niệm bao gồm hết các môn. Điều quý báu của môn này là rất có lợi việc liễu ngộ cái bản nguyên, nhưng kị nhất là quay đầu trở lại.

Hỏi: Ông muốn hoằng dương pháp môn niệm Phật, sao chẳng lấy các kinh Tịnh độ làm chủ đạo mà lại cực lực tôn sùng kinh Hoa Nghiêm. Nếu luận theo nhân quả, e rằng không hợp?

Đáp: Ông không có đọc kinh Vô Lượng Thọ sao! Trong phần tựa của kinh ấy, đầu tiên thuật lại hạnh nguyện Phổ Hiền, khuyến tấn người tu hành với ba bậc vãng sinh, đều có nhắc đến phát tâm Bồ-đề. Cuối cùng, vì chẳng liễu ngộ Phật trí, Bất tư nghị trí, Bất khả xứng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí thì dù cho có tu các công đức vẫn bị đọa vào loài sinh bằng bào thai. Vậy thì, nếu thật sự muốn ngồi tòa sen báu, lên ngôi Bất thoái ắt phải nhờ vào trí Văn-thù, lập nguyện Phổ Hiền để hồi hướng vãng sinh. Nay, kinh Hoa Nghiêm này, chủ yếu nói về giáo lý đó. Đến phần Thượng phẩm thượng sinh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng dạy đọc tụng kinh điển Đại thừa Phương đẳng. Nói đến kinh Đại thừa Phương đẳng thì không có kinh nào bằng kinh Hoa Nghiêm. Kinh này là kinh cao quý bậc nhất. Nhân quả không sai, vậy đâu có gì không hợp!

Hỏi: Ý nghĩa của pháp giới Hoa Nghiêm sâu kín trùng trùng, lấy vô lượng kinh điển làm quyến thuộc. Vì sao chỉ một môn niệm Phật mà có thể bao gồm hết thảy?

Đáp: Đúng như lời ông nói. Ý nghĩa kinh Hoa Nghiêm tuy sâu rộng, nhưng người mới phát tâm vào đạo cũng tự có phương tiện đặc biệt tiến vào. Đó là một môn niệm Phật này, nó có thể thông suốt hết vô biên pháp giới. Thế nên, đồng tử Thiện Tài ở trong một lỗ chân lông của Phổ Hiền đi qua bất khả thuyết, bất khả thuyết thế giới nhiều như số bụi nhỏ trong cõi nước Phật tận kiếp vị lai. Mỗi niệm đi đến khắp vô biên cõi nước. Người niệm Phật ở đây cũng vậy, vì một niệm vốn vô lượng.

Trong Pháp giới quán, ngài Đỗ Thuận thiết lập ba môn:

01. Môn chân không: Loại bỏ vọng tình để hiển lý, tức là niệm pháp thân Phật.
02. Môn lý sự vô ngại: Dung thông lý sự để hiển bày lực dụng, tức là niệm công đức Phật.
03. Môn chu biến hàm dung: Thu nhiếp sự sự để hiển bày chỗ đứng đầu, tức là niệm danh tự Phật.

Thanh Lương Sớ chia ra bốn pháp giới:

01. Nhất tâm niệm Phật, chẳng tu xen các hạnh khác, tức là nhập vào Sự pháp giới.
02. Tâm và Phật cả hai đều bặt, nhất chân độc thoát, tức là nhập vào Lý pháp giới.
03. Tức tâm tức Phật, đại dụng cùng hiện bày, tức là nhập vào Lý sự vô ngại.
04. Phi Phật phi tâm, thần diệu không lường, tức là nhập vào Sự sự vô ngại pháp giới.

Thế nên biết, một môn niệm Phật gồm thu tất cả pháp. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm lấy Tỳ-lô làm dẫn đạo, lấy Cực Lạc làm chỗ quy hướng. Đã được thân cận Di-đà thì chẳng rời Hoa Tạng; của báu nhà mình đầy đủ thì lực dụng vô biên. Nếu chẳng nhập vào môn niệm Phật này thì rốt cuộc chẳng phải là cứu cánh.

Hỏi: Trong Hoa Nghiêm Hợp Luận, ngài Phương Sơn (Lý Thông Huyền) cho rằng: Tịnh độ ở phương khác là quyền, chẳng phải thật, còn nay theo lập luận của Ngài thì làm sao hội thông?

Đáp: Trong giáo lý Tịnh độ, có chia cõi nước thành bốn cõi:

01. Cõi Thường Tịch Quang là chỗ ở của quả Phật.
02. Cõi Thật Báo là chỗ ở của bậc Pháp thân Đại sĩ.
03. Cõi Hữu Dư là chỗ ở của hàng Nhị thừa.
04. Cõi Đồng Cư là chỗ của phàm thánh ở chung.

Bốn cõi kể trên hoặc uế hoặc tịnh.

Nếu người ở cõi Ta-bà này nhờ sức chuyên niệm Phật, tu các công đức hồi hướng Tây phương nhưng hoặc nghiệp chưa dứt hết thì được sinh vào cõi Đồng Cư.

Nếu người có lòng ưa thích Cực Lạc, nhàm chán Ta-bà một cách thống thiết, đoạn trừ dần dần các hoặc thô lậu, nghe pháp thăng tấn trí huệ thì được sinh vào cõi Hữu Dư.

Nếu người lấy pháp tu viên giáo làm nhân, ngộ sâu thật tướng, dùng hạnh nguyện Phổ Hiền hồi hướng vãng sinh thì cảm được cõi Thật Báo, được Phật thọ ký, phần chứng tịch quang.

Vì thế, người trụ quyền thừa thì mọi thứ đều quyền như hóa thành trong kinh Pháp Hoa, vì chẳng ngoài tự tâm. Người tỏ ngộ thật tướng thì tất cả đều thật như Cực Lạc trong kinh này, vì hoàn toàn đầy đủ Hoa Tạng.

Lúc ngài Phương Sơn tạo luận, quyển cuối là phẩm Hạnh Nguyện chưa được truyền đến Trung Hoa, cho nên Ngài có sự phân biệt đối với một môn Tịnh độ, đó là điều trái với văn kinh. Vì vậy, cần phải biết từ chân khởi huyễn, ngay nơi huyễn toàn chân, sinh diệt đều lìa, tự tha bất nhị. Một niệm viên dung đến khắp pháp giới mới là pháp liễu nghĩa trung đạo nhất thừa. Điều ngài Phương Sơn đề xướng, chỉ ở chỗ Thập trụ sơ tâm tức thành Chánh giác. Y cứ vào giáo lý để phán đoán thật ra không phải là dễ. Sao vậy? Vì trong giai vị Thập tín của Viên giáo thì kiến hoặc, tư hoặc đều dứt hết, đồng thời đoạn trần sa hoặc, tiến vào giai vị Thập trụ của Viên giáo, phá tan vô minh chứng vô sinh nhẫn. Giai vị này ngang với bậc Sơ địa của Biệt giáo.

Nếu chỉ cậy vào sức mình thì như người dân thường mà mong được ngôi vua, cho rằng: Xưa nay vốn là Phật, không rơi vào giai vị, nhưng cũng phải nhờ phương tiện khéo léo mới có thể chứng đắc. Chi bằng theo lời dạy của phẩm Hạnh Nguyện, đem lòng tin sâu trì tụng mười đại nguyện vương, trong một Sát-na vãng sinh Cực Lạc, trụ bất thoái chuyển. Từ hạng phàm phu vượt ngang xông thẳng, rất viên rất đốn, không pháp môn nào có thể sánh bằng. May mắn gặp được kinh Hoa Nghiêm đủ bộ là nhân duyên chẳng phải tầm thường. Hạt châu trong vạt áo vẫn còn đó mà cứ mãi nhọc công tìm, nay kính khuyên mọi người hãy đồng lòng tin nhận.

Hỏi: Đời Tùy, có vị Tăng tên Linh Cán, tu quán Hoa Tạng. Lúc lâm chung, thấy hoa sen to như bánh xe trong ao nước đầy và Ngài được ngồi trên đó. Vậy, chỉ cần đến thẳng Hoa Tạng, đâu cần phải thân cận Di-đà?

Đáp:Thế giới Hoa Tạng có biển hương thủy, nhiều như số bụi nhỏ của mười bất khả thuyết cõi nước Phật, có mười bất khả thuyết chủng loại thế giới nhiều như số bụi nhỏ an trụ, mỗi chủng loại thế giới lại có các thế giới nhiều như số bụi nhỏ của bất khả thuyết cõi nước Phật. Thế giới Cực Lạc phương Tây cũng ở trong số đó.

Kinh Thủ-lăng-nghiêm ghi: “Nếu trong tâm tưởng niệm Phật, tu thêm phước huệ và nguyện sinh về Tịnh độ thì tự nhiên tâm thấy các đức Phật ở mười phương và tất cả các Tịnh độ, rồi tùy nguyện vãng sinh”.

Trường hợp ngài Linh Cán sinh về Tịnh độ Cực Lạc hay Tịnh độ nào khác chưa thể biết được! Vậy thì, chỉ cần thân cận Di-đà tức là vào thẳng Hoa Tạng. Trước có Thiện Tài, sau có Long Thụ, đường lối như thế, chư Thánh cùng đi. Nếu chẳng tuân theo lời Phật dạy, tự chuốc lấy khốn khổ vì lạc vào nhiều lối tẻ. Hạng người này thật đáng thương xót, chúng ta phải gần gũi họ để chỉ cho họ thấy điều đó.

Đời Tống, ngài Thảo Am Đạo Nhân tu giáo quán viên đốn. Về già, trụ trì chùa Diên Khánh. Đến ngày 17 tháng 04 niên hiệu Càn Đạo thứ 03 (1167), Ngài nói lời từ biệt đại chúng: “Thế giới Hoa Nghiêm rỗng rang lặng lẽ sáng rỡ, rất hợp ý tôi, hôm nay tôi sắp đi”. Rồi Ngài nói kệ ngợi khen Phật A-di-đà:

“Vô biên cõi nước là biển không
Biển không toàn là cung hoa sen
Cung sen đầy khắp cả biển không
Biển không độc lộ Phật Di-đà.
Đức Phật Di-đà không sinh diệt
Khó tìm, khó nắm trăng đáy nước
Tuyệt phi, ly cú, thân như vậy
Cảm thông như thế, nói như thế.
Tôi với Di-đà vốn không hai
Vọng giác thầm sinh, bỗng thành khác
Từ nay quét sạch hết trần lao
Cha con thiên nhiên gặp lại nhau
Thệ tu ba phước, hành sáu niệm
Nghiệp thân, miệng, ý không lầm lỗi
Nay tôi phát tâm niệm Di-đà
Không thấy Di-đà, không thôi nghỉ”.

Sau đó, Ngài cùng đại chúng xướng niệm trăm câu danh hiệu Phật, phúng tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ đến câu thượng phẩm thượng sinh thì thu thần nhập diệt. Cực Lạc và Hoa Nghiêm là đồng hay là khác, những người có trí hãy mau mau để mắt!

Lời cuối sách

Luận này được viết vào tháng chạp, mùa Đông niên hiệu Càn Long thứ 48 (1783), mới hoàn tất. Ông Uông Đại Thân có lời bình phẩm: “Luận này là chính nhân Tịnh độ, là chính tín Hoa Nghiêm”. Và nói: “Năm niệm tức là một niệm, một niệm tức là vô niệm”.

Mùa xuân năm sau, luận này được truyền đến Đan Đồ, được ông Vương Vũ Khanh đánh giá cao và ông viết cho lời tựa. Đại Thân hết sức ngợi khen và cho là kỳ đặc, rồi mang dâng lên quan Thượng thư họ Tiên, nhưng Ngài đã qua đời.

Tôi ẩn cư nơi Tăng xá để đọc kinh Hoa Nghiêm, rồi cùng với các bạn có chí xuất trần chất vấn nhau về Tánh tông, cũng có bàn đến sự tổn ích của tập luận này.

Mấy năm sau, tôi từ Tiền Đường trở về, lại bế quan ở Văn Tinh Các tu Niệm Phật Tam-muội. Suốt mùa hạ tịch liêu, tôi đem cảo bản trước kia ra xem lại và chép thành luận này. Ngoài các ngài Hiền Thủ, Phương Sơn ra, tôi cũng chẳng ngại gì thi thố bản lĩnh của mình. Giả sử nếu gặp ông già Vân Thê (Đại sư Liên Trì Châu Hoằng), chắc chắn tôi với Ngài sẽ nhìn nhau mỉm cười.

Ngày cuối tháng sáu
niên hiệu Càn Long thứ 56 (1791)
Bành Tế Thanh ghi
Nguyên Đán năm Bính Tuất (2006)
Định Huệ kính dịch

Bản dịch của Dịch giả Hải Triều Âm

Pháp môn niệm Phật ước lược có hai : Phổ niệm và chuyên niệm. Kinh Quán Phật Tướng Hải và Kinh Phật Bất Tư Nghì Cảnh Giới dạy phổ niệm. Kinh A Sơ Bệ và Kinh A Di Đà đặc biệt dạy chuyên niệm. Nay Kinh Hoa Nghiêm, một và nhiều tương nhập, chủ và bạn giao dung, tự và tha tương tức, cũng chuyên cũng phổ, lược nêu năm nghĩa :

I/- Niệm Pháp-thân Phật, trực chỉ tự tánh chúng sanh. Chân tâm chúng ta rộng lớn chu biến không nơi nào không có. Phẩm Như Lai Xuất Hiện nói : “Mười phương pháp giới niệm niệm vẫn có chư Phật thành chánh giác. Vì tâm Phật tâm chúng sanh đồng thể không rời nhau nên việc này các Bồ-tát đều rõ biết”. Lại nói : “Không một chúng sanh nào không đủ trí tuệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng điên đảo chấp trước mà không chứng được. Nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trí ắt được hiện tiền”. Làm thế nào lìa vọng tưởng ? — Nên biết những điên đảo chấp trước của chúng sanh bản thể vốn là Pháp-thân tịch diệt thanh tịnh. Chỗ chứng của chư Phật không chi khác là chứng được chân tánh của chúng sanh. Nếu tin được như thế thì trở về, niệm niệm không mê, không chấp ngã sở. Cứ con đường ấy khởi hành. Nơi thân không chấp ngã, chỗ tu không vướng mắc, với pháp chẳng cố trụ. Trải qua các ngôi vị Trụ, Hành, Hồi Hướng, thập Địa, luyện đức từ bi, thì đâu rời đương niệm mà nhân quả viên thành. Cho nên nói vừa phát tâm Bồ-đề liền thành chánh giác.

Các phẩm Hiền Thủ, Sơ Phát Tâm Công Đức rộng nói việc này. Như vậy niệm Phật sẽ thấy thân Phật ở khắp mọi nơi.

Phẩm Quang Minh Giác, đức Thế Tôn phóng trăm ức quang minh, từ ba ngàn đại thiên thế giới khắp chiếu 10 phương. Văn Thù kệ rằng : “Cứ lìa các kiến chấp, quán Như Lai, thế là nhập chánh tín”. Phẩm Xuất Hiện cũng nói : “Bồ-tát không nên nơi một pháp, một sự, một thân, một quốc độ, một chúng sanh mà thấy Như Lai. Phải thấy Như Lai như hư không, vào khắp sắc tượng, chẳng đến chẳng không đến. Vì hư không không thân. Thân Như Lai cũng thế, ở khắp nơi nơi tại khắp chúng sanh, ở hết thảy pháp, hết thảy quốc độ. Không đến chẳng phải không đến. Như Lai không thân cố định, chỉ vì chúng sanh mà hiện thân”. Lại nói : “Bồ-tát trí tuệ biết chẳng những chân như thật tế là cảnh giới Như Lai mà tất cả cảnh giới chúng sanh đều là cảnh giới Như Lai”. Đây là niệm tự tánh Phật cũng gọi tự tánh niệm Phật. Tự tánh niệm Phật là không có tâm năng niệm ngoài Phật. Niệm tự tánh Phật là không có Phật sở niệm ngoài tâm. Vào được môn này, công đức một niệm như hư không, không có hạn lượng.

Kinh Hoa Nghiêm nổi tiếng có nhẽ vì câu : “Lạ lắm thay ! Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí tuệ đức tướng Như Lai”. Câu nói : “Tất cả chúng sanh đều thành Phật” thật là thâm diệu, thật là quan trọng. Chúng sanh luân chuyển trong 6 đạo, không luận đến mức độ nào, đều có Phật tánh. Phật tánh không bao giờ hư hoại, đồng thể, bình đẳng với 10 phương chư Phật. Niệm Pháp-thân Phật là niệm thể tánh bình đẳng ấy. Như Lai Tạng và Pháp-thân bản chất giống nhau. Chỉ khác biệt là còn phiền não trói buộc gọi là Như Lai Tạng. Lìa phiền não gọi là Như Lai Pháp-thân. Ở phàm phu gọi là Như Lai Tạng. Ở Phật gọi là Như Lai Pháp-thân. Cũng như mặt trời bị mây mù và mặt trời đã ra khỏi mây mù. Như Lai Tạng là nhân. Pháp-thân là quả. Nhân quả không 2 không khác, đều là tự tánh thanh tịnh tạng.

II/- Niệm báo thân và hóa thân Phật. Vô tận trang nghiêm, vô biên Phật sự lấy Phổ quang minh trí làm thể. Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm nói : “Trí nhập tam thế, tất đều bình đẳng. Thân sung mãn tất cả thế gian. Âm thanh phổ thuận 10 phương quốc độ. Như hư không hàm vạn tượng không phân biệt”.

Báo thân Phật quả là công đức rốt ráo viên mãn, chứng được vô dư Niết bàn, đoạn hết ngũ trụ phiền não, vĩnh viễn xa lìa cả 2 sanh tử phận đoạn và biến dịch. Cảnh là thật tướng các pháp. Trí là đệ nhất nghĩa Bồ-đề.

Như Lai Tạng như châu báu bị rớt vào hầm phân. Thể tánh tuy vẫn là châu báu nhưng hiện tại đang bị bao quanh toàn nhơ uế. Phàm phu nhị thừa còn ở trong vòng nhị kiến (thấy 2 : thấy tương đối) dẫn sanh các thứ tà kiến mê si. Đức Phật đã diệt sạch phiền não tạng nên báo thân đồng Pháp-thân đủ 4 đức thường lạc ngã tịnh.

Kỳ thật cứu cánh chân như vẫn thường hằng bất biến. Trí tuệ và công đức vô biên vẫn không lìa chân thật tức là Phật tánh (Như Lai Tạng). Đây là nơi nương tựa để có thể thành Phật. Từ cảnh trí cứu cánh của Như Lai, truy cầu căn nguyên thấy là Như Lai Tạng chúng ta vốn có. Chỉ cần xứng tánh, phát triển trí năng thì chúng ta sẽ đạt công đức Như Lai. Như Lai là mục đích cứu cánh chúng ta tiến tới. Tư tưởng chân thường diệu hữu bất không này được thể hiện và phát huy đến cực điểm trong kinh Hoa Nghiêm.

Phàm phu nghe pháp, nhập lý, được căn bản trí. Nếu không y trí này khởi hạnh đại bi, viên tu viên chứng, sẽ đọa cảnh giới nhị thừa, chẳng được đại dụng của chư Phật. Cho nên 6 phẩm sơ hội toàn hiển Như Lai quả đức. Hội 2 đến hội 8, 32 phẩm chỉ rõ thứ lớp thềm thang tiến bước, thẳng tới Bồ-đề. Khiến cho hành giả thiệu long trí cảnh, rốt ráo các hạnh môn, không thủ thiên không mà trang nghiêm Phật độ.

Một phẩm Phổ Hiền Tam muội ở sơ hội chính hiển toàn thể Phật Hoa Nghiêm. Phổ Hiền Bồ-tát nhập Nhất thiết chư Phật Tỳ Lư Giá Na tạng thân tam muội. Tam muội này y pháp giới, xứng tánh biến chu tất cả các cõi nước nhiều như vi trần. Phẩm Thế Giới Thành Tựu và phẩm Hoa Tạng Thế Giới chỉ bày các quốc độ tịnh uế duy tâm. Với người vào sâu biển nguyện Phổ Hiền, ở ngay trần lao phồn hưng đại dụng, thì tất cả xứ chẳng đâu không phải đất Phaảt. Hết thảy thời, không lúc nào chẳng làm việc Phật.
Các tri thức của Thiện Tài đồng tử cầu học, Đức Vân Tỳ kheo, Giải Thoát trưởng giả, Tỳ Sắt Chi La cư sĩ, đều lấy một môn niệm Phật làm phương tiện giải thoát.

Đức Vân nói : “Ta được Tự tại quyết định giải lực, mắt tin thanh tịnh, trí quang chiếu diệu, khắp quán cảnh giới lìa hết thảy chướng”. Thiện xảo quan sát, phổ nhãn minh triệt là niệm Pháp thân Phật.

“Đi khắp 10 phương hết thảy quốc độ, cung kính cúng dường tất cả chư Phật, vâng giữ hết thảy chánh pháp, thường thấy tất cả chư Phật” là niệm báo thân Phật.

Từ Pháp thân khởi hóa thân. Pháp thân đã vô lượng thì hóa thân cũng vô cùng. Văn dưới nói : “Thấy phương Đông vi trần số Phật. Tây Nam Bắc cũng thế. Đây là Ức niệm nhất thiết chư Phật cảnh giới trí tuệ quang minh phổ kiến pháp môn”.

Chư Phật riêng không cảnh giới. Chỉ dùng trí tuệ quang minh tùy thuận chúng sanh làm Phật sự. Người niệm Phật vì đầy đủ tin hiểu nên vào được trí tuệ Phật. Vì vậy đủ quán hạnh nên thấy quang minh Phật. Trí tuệ quang minh như thế nương duyên nhân mà hiển phát. Văn dưới Đức Vân nói luôn một lúc 21 môn niệm Phật của các đại Bồ tát. Tận 10 phương 3 đời nơi mỗi đầu lông, từng niệm từng niệm đều có Phật xuất thế, Phật nói pháp, Phật diệt độ. Đều lấy tự tâm vô biên trí hạnh làm thể. Niệm Phật Tam muội khắp nhiếp tất cả tam muội.

Giải Thoát trưởng giả nói : Ta vào Như Lai vô ngại trang nghiêm giải thoát môn. Thấy 10 phương, mỗi phương 10 Phật sát vi trần số Như Lai. Chư Phật không đến đây, ta cũng không đến quý Ngài. Ta muốn thấy Phật A Di Đà ở An Lạc, Tỳ Lư Giá Na Như Lai ở thế giới Bảo Sư Tử Trang Nghiêm… Như vậy tất cả đều thấy ngay. Biết tâm năng kiến, Phật sở kiến, như mộng, như huyễn, như ảnh, như vang. Thấy biết nhớ nghĩ đều do tự tâm”. Vô ngại trang nghiêm giải thoát là lìa tất cả tướng mà thành tất cả tướng. Vì coi như mộng như huyễn mà không hoại cảnh mộng huyễn (như đức quán Thế Âm, khi tu thì nhập tánh nghe, buông âm thanh. Nhưng đến ngày chứng quả lại tầm thanh cứu khổ). Nếu không vào pháp môn này sẽ như các ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên… ở trong rừng Kỳ Đà mà không thấy cảnh giới thần lực của Như Lai vì thiện căn không đồng.

Tỳ Sắt Chi La nói : “Mở cửa tháp chiên đàn tòa của Như Lai, ta được tam muội tên là Phật chủng vô tận, theo thứ lớp ta thấy tất cả chư Phật của thế giới này, đức Ca Diếp, đức Câu Na Hàm Mâu Ni cho đến bất khả thuyết vi trần số Phật”. Phật chủng vô tận như thế đều do Phổ Hiền hạnh nguyện sanh ra. Phổ Hiền hạnh nguyện là : Hư không giới tận, chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, nguyện tôi mới cùng. Vì 4 thứ này vô tận, Phật chủng cũng vô tận. Nên nói : “Ta biết 10 phương tất cả Như Lai rốt ráo không nhập Niết bàn”. Nên biết hóa thân Phật cai hết thảy con số như phẩm A Tăng Kỳ đã nói, suốt thời gian như phẩm Như Lai Thọ Lượng đã nói, khắp các nơi như phẩm Bồ tát Trụ Xứ đã nói.

Niệm Pháp thân Phật để biết gốc nguồn là nơi nương tựa. Niệm báo thân Phật để biết công đức bao la chư Phật đã viên mãn. Hóa thân Phật là nghĩa nhiếp thọ. Đức Phật hiện thân như chúng sanh để thâu nhiếp họ và truyền trao giáo pháp. Phật Pháp thấm nhuần vào thân tâm, hình dung lên lời nói và nếp sống. Nếu không thì Pháp thân bình đẳng, báo thân cứu cánh của Phật đối với chúng ta ích gì ? Dù nguồn gốc là Phật tánh mà thật tế vẫn cứ y nhiên phàm phu, ái dục vẫn vương, 3 độc chẳng dứt, thật là đáng thương.

Thiên bách ức hóa thân Thích Ca xuất thế để làm điển hình hùng lực phát triển nguồn gốc công đức trí tuệ. Đánh thức chúng ta, khuyên noi gương dũng mãnh xé màn vô minh. Chúng ta học và hiểu, Phật Pháp từ thâm tâm thể hiện. Chúng ta sẽ quyết chí, nhân Như Lai Tạng bình đẳng vốn sẵn đầy đủ của tất cả chúng sanh, hoàn thành cứu cánh Như Lai công đức. Như thế gọi là Hoa Nghiêm. Sự nghiệp Hoa Nghiêm chính chúng ta phải thực hiện, chớ không phải ai khác.

III/- Niệm Phật danh hiệu thành tựu tối thắng phương tiện. Pháp thân không nêu biểu, nương danh hiệu mà hiện. Báo thân, hóa thân đều nhờ danh hiệu mà được chỉ bày. Phẩm Tu Di Kệ Tán : “Thà chịu khổ địa ngục được nghe danh hiệu Phật, không muốn hưởng vô lượng vui mà chẳng được nghe danh hiệu Phật”. Nghe danh hiệu Phật là đã được kết duyên thù thắng huống chi luôn luôn thường niệm. Kinh Văn Thù Bát Nhã nói : “Muốn vào Nhất hạnh tam muội nên ở chỗ vắng vẻ, điều hòa tâm ý, buông xả cảnh trần, chuyên xưng danh hiệu một vị Phật. Đoan thân chính hướng về phương sở của Ngài. Tương tục tưởng nhớ một vị Phật tức là niệm quá khứ vị lai hiện tại 10 phương chư Phật. Công đức niệm một vị Phật với công đức niệm vô lượng Phật không khác.

Kinh A Di Đà lấy chấp trì danh hiệu làm chánh nhân vãng sanh. Cho nên biết công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn. Phẩm Đâu Suất Kệ Tán : “Người nào lấy Phật làm cảnh giới, chuyên niệm không thôi sẽ thấy vô số Phật”. Phẩm Hiền Thủ nói: “Nếu thường niệm Phật, tâm không động loạn, ắt thường thấy vô lượng Phật. Nếu thường thấy vô lượng Phật ắt biết Như Lai thường trụ”. Kệ trên luận về trì danh nên dùng chữ “số”. Kệ sau từ hóa thân báo thân mà tới Pháp thân cho nên dùng 2 chữ “vô lượng”. Người ta biết con số có lượng mà không biết con số lìa lượng. Biết đếm số của danh mà không biết lìa số của danh. Biết lìa số của danh thì trọn ngày niệm mà ly niệm. Vì lìa lượng của số nên 1 Phật là tất cả Phật. Phẩm Tùy Hảo Quang Minh nói : “Ta nói ngã mà không chấp ngã, ngã sở. Tất cả chư Phật cũng vậy, tự nói là Phật mà không chấp ngã, ngã sở”.

Song người mới tu phải dùng con số để hàng ngày khắc định thời khóa công phu. Từ 1 đến vạn, từ vạn đến ức, tâm không lìa Phật, Phật không rời tâm. Như mặt trăng đáy nước, trăng đâu có ở trong nước. Như xuân tại cành hoa, xuân cũng chẳng ờ ngoài cành hoa. Như thế niệm Phật, danh hiệu tức Pháp thân vì tánh của danh hiệu bất khả đắc. Pháp thân tức danh hiệu vì Pháp thân ở khắp tất cả. Cho đến báo thân hóa thân cũng chẳng khác danh hiệu. Phẩm Như Lai Danh Hiệu nói : “Một danh hiệu Như Lai ngang với pháp giới hư không giới. Tùy chúng sanh tâm mỗi mỗi thấy sai biệt”. Phẩm Tỳ Lư Giá Na xưng dẫn các cổ Phật, lấy một Tỳ Lư đại diện vì tất cả chư Phật đều có Tỳ Lư tạng thân, cổ kim chẳng khác. Như thế trì 1 Phật danh toàn thâu pháp giới. Chẳng quá khứ hiện tại vị lai cũng chẳng Đông Tây Nam Bắc. Mười phương ba đời ở ngay đương niệm. Chứng được chỗ này, không trải sát na, thành Phật đã xong.

IV/- Niệm Tỳ Lư Giá Na Phật đốn nhập Hoa Nghiêm pháp giới. Như phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, 10 phương đại Bồ tát cùng Thiên long quỷ thần nói về pháp môn tự chứng, lấy Như Lai quả địa phát khởi lòng tin hiểu cho người, đưa người vào niệm Phật tam muội. Từ phẩm Như Lai Hiện Tướng cho đến Tín, Trụ, Hành, Hồi Hướng, mỗi phẩm đều có 10 phương các đại Bồ tát và các thế chủ nói kệ tán Phật. Riêng phẩm Thập Địa, mỗi Địa đều nói : “Không lìa niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng” thế thì biết các ngôi vị cao thấp khác nhau, không ngôi nào chẳng lấy niệm Phật làm bản hạnh. Phật Phật đạo đồng. Cử một đức Tỳ Lư là nhiếp không cùng tận.

Mười hạnh nguyện Phổ Hiền, môn Thường theo Phật học : “Như ở cõi Ta Bà, đức Tỳ Lư Giá Na từ sơ phát tâm tinh tấn bá thí bất khả thuyết bất khả thuyết thân mệnh cho đến khi thành Bồ đề. Như thế tôi thường theo học”. Bổn Sư ta, nhân địa tu hành quảng đại vô biên không thể nghĩ bàn, cảm quả báo cũng quảng đại vô biên không thể nghĩ bàn. Bậc tu hành chân thành tin hiểu ta có Phật tánh, liền khởi tâm dũng mãnh, tâm quyết định, tâm gánh vác. Như thế cùng với đức Bổn Sư lúc sơ phát tâm không khác.
Tịch Tịnh Âm Hải Dạ thần nói : “Ta được Niệm niệm xuất sanh quảng đại Bồ tát trang nghiêm giải thoát. Đã vào 10 bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số biển pháp giới an lập, thấy ở nơi mỗi biển, trong mỗi hạt bụi đều có bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần cõi Phật. Mỗi cõi đều có Tỳ Lư Giá Na ngồi đạo tràng thành chánh giác, hiện các thần biến, mỗi mỗi khắp tất cả biển pháp giới”.

Khai Phu Thọ Hoa Dạ thần vào Xuất sanh quảng đại quang minh giải thoát môn, hễ nhớ nghĩ tới biển công hạnh của đức Tỳ Lư Giá Na, liền được thấy rõ ràng.

Diệu Đức Viên Mãn thần được Tự tại thọ sanh giải thoát môn, vào biển Tỳ Lư Giá Na vô lượng thọ sanh, cũng thấy Như Lai thị hiện thọ sanh không gián đoạn, trong vô lượng cõi. Như thế tận 10 phương giới không nơi nào bằng 1 đầu kim chẳng phải là pháp giới Tỳ Lư. Thế gọi là niệm Phật pháp giới cũng gọi là niệm khắp tất cả Phật.

Thiện Tài đồng tử đầu tiên tham học Đức Vân được dạy pháp môn niệm Phật. Đến cuối cùng lại được Phổ Hiền Bồ tát vì nói kệ xưng tán Như Lai công đức, như thế nghĩa là vẫn y như cũ, không lìa pháp môn niệm Phật.

Kệ rằng :
“Hoặc thấy thế giới đẹp khôn sánh, đã được Phật nghiêm tịnh từ vô lượng kiếp. Đức Tỳ Lư Giá Na tối thắng tôn nơi đây giác ngộ thành Bồ đề. Hoặc thấy Phật Vô Lượng Thọ. Các Bồ tát như Quán Tự Tại vây quanh, đều đã trụ ngôi Quán đỉnh, tràn đầy 10 phương các thế giới”.

Lại nói :
“Hoặc thấy Thích Ca thành Phật đạo đã trải bất tư nghì kiếp. Hoặc thấy nay mới là Bồ tát đang làm lợi ích chúng sanh. Hoặc thấy Như Lai Vô Lượng Thọ trao ký cho các Bồ tát thành vô thượng đại đạo sư, sẽ bổ xứ về cõi An Lạc”.

Cho nên biết pháp giới chư Phật biến nhiếp biến dung. Di Đà là toàn thể Giá Na. Cực Lạc chẳng lìa Hoa Tạng. Tùy tâm chúng sanh thấy, mỗi mỗi không đồng. Phật bản lai thường bất động.

V/ Niệm Cực Lạc thế giới Phật A Di Đà, viên mãn Phổ Hiền hạnh nguyện.

Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện : Muốn thành Như Lai công đức phải tu 10 hạnh nguyện quảng đại. Thọ trì đọc tụng 10 nguyện vương này, mệnh chung liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới.

Kinh Hoa Nghiêm chuyên hiển cảnh giới Tỳ Lư, làm sao cuối cùng quy về Cực Lạc ? Bởi vì A Di Đà là Vô Lượng Quang. Tỳ Lư Giá Na là Quang Minh Biến Chiếu. Vì đồng một thể nên chẳng đến đi. Vì trong một thể cũng chẳng ngại có đi có đến. Đại Thừa Khởi Tín Luận : “Chúng sanh mới học đạo, mong cầu chánh tín, sợ rằng ở cõi Ta Bà chẳng thường gặp Phật thân thừa cúng dường, tâm dễ thoái lui. Như Lai có thắng phương tiện nhiếp hộ tín tâm, dạy chuyên niệm Tây phương An Lạc thế giới A Di Đà Phật. Bao nhiêu thiện căn tu được, hồi hướng nguyện cầu sanh thế giới kia, liền được vãng sanh. Vì thường thấy Phật nên không thoái lui”.

Tỳ Lư báo độ thì nhị thừa và phàm phu không phần. Còn bên Cực Lạc lại phân trương 9 phẩm đón rước cả vạn loài. Một phen vãng sanh cắt ngang sanh tử. Các kinh so sánh 2 cõi hơn kém đã nhiều. Đây không cần nhắc lại. Có kinh dạy 10 niệm. Có kinh dạy từ 1 đến 7 ngày. Có kinh dạy quán thân trượng sáu. Có kinh dạy quán thân 60 vạn ức na do tha hằng hà sa do tuần. Chung quy chẳng ra ngoài số lượng. Đâu bằng Hoa Nghiêm một niệm phổ quán, dọc suốt ba đời ngang bằng thập hư. Sơ phát tâm liền siêu số lượng. Bao nhiêu tịnh nhân đều tối thù thắng. 48 nguyện Phật A Di Đà khắp nhiếp chúng sanh. Phổ Hiền hạnh vương thể hàm hư không, tơ hào không có phân cách. Vì vậy thời gian không dời đổi, không gian chẳng xê dịch, nhậm vận vãng sanh, hoàn đồng bản giác.

Văn dưới nói : “Tới rồi liền thấy Phật A Di Đà, Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc…” Văn Thù, Phổ Hiền không lìa cõi này mà vẫn ở phương kia. Tùy tâm chúng sanh niệm niệm xuất hiện. Nên biết Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc thường chuyển kinh Hoa Nghiêm không gián đoạn.

Nếu không có diệu trí quan sát, không sao tỏ được tâm ta vốn đủ tịnh nhân. Cho nên đầu tiên thiện tri thức số 1 là Văn Thù. Lại nếu không đại nguyện trang nghiêm cũng chẳng thể viên mãn tịnh quả mà tâm ta vốn đủ. Cho nên cuối cùng Phổ Hiền chung kết.

Quán Âm, Di Lặc, một bổ xứ Di Đà, một bổ xứ Thích Ca, 2 Thánh đồng hội để chứng Lạc bang Hoa tạng không 1 chẳng 2. Di Lặc quan sát 10 phương duy thức. Thức tâm viên minh vào viên thành thật. Đây là chính nhân Tịnh độ. Quán Âm do như huyễn văn huân vô tác diệu lực, vào các quốc độ thành tựu Bồ đề. Đây là cực quả của Tịnh độ.

Văn dưới nói : Người ấy tự thấy sanh trong hoa sen, mong Phật thọ ký. Được thọ ký rồi, suốt đời vị lai dùng trí tuệ lực lợi ích chúng sanh. Chẳng bao lâu sẽ ngồi tòa Bồ đề, nơi đạo tràng hàng phục ma quân, thành đẳng chánh giác, chuyển diệu pháp luân, khiến cho vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ đề, đồng chứng đạo quả.

Toàn bộ Hoa Nghiêm ở nơi kết quả này. Ai người trí tuệ hãy quyết tin vào. Một niệm rụt rè, luân hồi vô tận ! Ô hô ! Khổ thay !
Nhiếp thọ chánh pháp cần 3 yếu tố : Tín, Nguyện, Hạnh. Chí chuyên cần dựa lòng hâm mộ. Hâm mộ y chỉ Tín và là động lực của tâm nguyện cầu, khiến phát khởi ý chí tinh tấn thực hành.

Về nghĩa chân thường diệu hữu trong đại thừa Phật Pháp thì Tín đặc biệt trọng yếu. Lòng tin không chân thành tha thiết thì dù thông hiểu giáo lý mà vẫn chẳng thật hành. Cần phải tin chắc nhân sanh đang bị trăm khổ bức bách. Tin Phật Pháp có khả năng cứu độ chúng sanh. Tin công đức Phật vô biên, trí tuệ Phật vĩ đại, giáo pháp của Phật chân chánh. Tin quyết chắc đạo Phật đã đề xướng lên nghĩa cứu cánh của nhất thừa thật không hư vọng. Có tin mới chịu phát nguyện, rồi từ nguyện khởi hạnh. Tín tâm là bước đầu của sự nghiệp học đạo, thọ tam quy, vào chánh giáo. Kinh Hoa Nghiêm nói : Tin là mẹ các công đức lành. Trí Độ Luận nói : Có Tin như có tay, vào núi báu Phật Pháp không luống uổng.

Phật Pháp là kết tinh của vô biên trí tuệ, là nguồn gốc của tất cả công đức quý báu. Có Tín Nguyện Hạnh mới vào được cửa Phật thừa. Y đức lập danh thì HOA chỉ cho các thứ công đức. Thánh Hiền tự trang nghiêm bằng công đức. Kinh Hoa Nghiêm lấy đại hạnh của Bồ tát làm HOA để trang nghiêm Phật quả. Pháp thân tức Như Lai Tạng, chúng sanh nào cũng vốn sẵn nhưng không hiển bày vì không có công đức trang nghiêm. Nhân thiên công đức, nhị thừa công đức đều trang nghiêm nhưng đại hạnh Bồ tát đặc biệt thơm tươi rực rỡ nên ví như HOA.

HỎI : 5 môn kể trên cần vào 1 môn hay phải học cả 5 ?

ĐÁP : Thượng căn lợi trí rõ được tự tánh Di Đà, minh bạch duy tâm Tịnh độ. Nêu Pháp thân là nhiếp không cùng tận. Lý thì đốn ngộ, sự phải tập dần. Giáo chỉ Hoa Nghiêm, sơ Trụ tức đồng chư Phật. Xong vẫn Tín Trụ Hành Hồi Hướng tiến tu. Chẳng ai không đi đường ấy mà tới Diệu giác. Thứ lớp rõ ràng. Thủy chung cho đến 10 Địa. Do đại nguyện lực, khoảnh khắc một niệm thấy na do tha Phật. Còn trên quả địa cầu này, tùy chỗ đã thấy Phật mà có các thứ sai khác.

Cõi này người tu dù đã phục hoặc phát ngộ nhưng chưa chứng vô sanh, sao thoát thân sau ? Không nương Phật lực, công hạnh khó viên. Cần hướng về Lạc bang, thân thừa thọ ký, tịnh các tập khí mới mãn nguyện vương. Đây là một cửa mở nẻo siêu vượt diệu trang nghiêm. Ai còn thô hoặc, chưa hết nghi tình thì càng phải chuyên trì một danh hiệu Phật. Kiền cần phát nguyện như con thơ nhớ mẹ, lấy chết làm hẹn kỳ lại thêm giáo quán huân tu, trợ phát thắng trí, cảm ứng đạo giao, công không luống uổng. Như đây toàn bằng một niệm mà nhiếp đủ các môn. Một nguồn lợi lớn quý báu, nhất định phải hồi đầu chuyển não.

HỎI : Anh thích pháp môn niệm Phật, sao không dùng các kinh về Tịnh độ mà lại đem tâm chú trọng vào Hoa Nghiêm. Căn cứ nơi quả để tìm hiểu nhân, 2 đường lối khó hợp.

ĐÁP : Kinh Vô Lượng Thọ phần Tựa khuyến tiến người tu, 3 ngôi vãng sanh đều dạy phải phát tâm Bồ đề. Song nếu không rõ Phật trí, bất tư nghì trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí, tuy có niệm Phật mà lòng chưa quyết tin thì dù tu công đức vẫn đọa biên địa. Ai thành tâm muốn ngồi tòa sen báu, đăng ngôi bất thoái, phải y Văn Thù trí, vững nguyện Phổ Hiền, hồi hướng vãng sanh. Nay kinh Hoa Nghiêm chính hợp lời dạy. Thượng phẩm thượng sanh trong Quán Kinh cũng đòi điều kiện là phải tụng đọc đại thừa phương đẳng kinh điển. Kinh Hoa Nghiêm là đệ nhất tối tôn. Nhân quả không sai, đâu có lạc nẻo.

HỎI : Hoa Nghiêm pháp giới trùng trùng mật nghĩa, dùng vô lượng Tu đa la làm quyến thuộc, làm sao một môn niệm Phật mà phổ nhiếp được ?

ĐÁP : Thành thật mà nói, giáo chỉ rộng sâu, tự có phương tiện cho sơ tâm vào đạo. Vào một môn này bèn khắp suốt vô biên pháp giới. Thiện Tài đồng tử, nơi một chân lông của Phổ Hiền, qua bất khả thuyết bất khả thuyết vi trần số thế giới, tận kiếp vị lai, niệm niệm chu biến vô biên sát hải. Người niệm Phật cũng thế vì một niệm vốn vô lượng.

Pháp giới quán rất nhiều nhưng đặc biệt thiết thật có 3 : 1) Chân không môn, lọc vọng tình để hiển lý tức là niệm Pháp thân Phật. 2) Lý sự vô ngại môn, dung hòa lý sự để hiển dụng tức là niệm Phật công đức. 3) Chu biến hàm dung môn, nhiếp sự sự để hiển nguồn gốc tức là niệm danh hiệu Phật.

Thanh Lương Sớ Sao chia làm 4 pháp giới :
1/- Nhất tâm niệm Phật không tạp nghiệp khác tức nhập sự pháp giới.
2/- Tâm và Phật đều vong, nhất chân độc thoát tức vào lý pháp giới.
3/- Tức tâm tức Phật, đại dụng tề trương tức nhập lý sự vô ngại pháp giới.
4/- Phi tâm phi Phật thần diệu khó lường tức nhập sự sự vô ngại pháp giới.

Phải biết một môn niệm Phật không pháp nào chẳng nhiếp. Cho nên kinh Hoa Nghiêm tôn trọng đức Tỳ Lư, lấy Cực Lạc làm chỗ quay về. Đã gần Di Đà không lìa Hoa Tạng, châu báu của nhà vốn đủ tha hồ thọ dụng. Không vào môn này trọn không cứu cánh.

HỎI : Phương Sơn Luận cho rằng Tịnh độ ở phương khác là quyền chẳng phải thật. Lời bàn này làm sao cho thông ?

ĐÁP : Giáo chia 4 cõi.
1/-Thường Tịch Quang độ là cõi của Phật.
2/- Thật Báo độ là chỗ của Pháp thân Bồ tát.
3/- Hữu Dư độ là chỗ của nhị thừa.
4/- Đồng Cư độ là nơi phàm Thánh chung ở, gồm cả uế tịnh.

Người tu ở Ta Bà, do lực chuyên niệm, tập các công đức, hồi hướng Tây phương. Hoặc nghiệp chưa đoạn, sanh về Đồng Cư. Hân tịnh chán uế nếu tha thiết, thô lậu tiêu dần, nghe pháp tăng tiến, sanh về Hữu Dư. Nếu tu nhân Viên giáo, thâm đạt thật tướng, dùng Phổ Hiền hạnh nguyện hồi hướng vãng sanh, cảm cõi Thật Báo. Thân thừa thọ ký, phần chứng Tịch Quang. Cho nên người tại quyền thừa, tất cả đều quyền như hóa thành trong kinh Pháp Hoa. Vì chẳng ngoài tự tâm. Người rõ thật tướng, tất cả đều thật như Cực Lạc ở kinh này. Vì toàn đủ Hoa Tạng.

Khi Phương Sơn làm luận, phẩm Hạnh Nguyện chưa tới Trung Hoa. Cho nên ở một môn Tịnh độ tẽ sinh phân biệt, trở lại thấy kinh văn trái nghịch. Nên biết từ chân khởi huyễn tức huyễn toàn chân, sanh diệt đều lìa, tự tha không 2, một niệm viên dung phổ chu pháp giới mới là trung đạo liễu nghĩa nhất thừa. Đề xướng khẩn thiết của Phương Sơn chỉ ở chỗ thập Trụ sơ tâm tức thành chánh giác. Song y giáo pháp thì chính cùng với đại thừa không khác. Ở ngôi Viên tín, hết kiến tư hoặc lại đoạn trần sa tiến vào Viên trụ, dung phá vô minh, chứng vôâ sanh nhẫn. Vị ngang sơ Địa Biệt giáo. Nếu y tự lực như bọn mê muội chợt mong ngôi báu, cho bản lai là Phật, không lạc giai cấp. Phải nương thiện xảo phương tiện mới có thể khắc chứng. Đâu bằng hạnh nguyện ở quyển chót : Đem tâm tin sâu, trì tụng 10 đại nguyện vương. Trong một sát na, vãng sanh Cực Lạc, trụ ngôi bất thoái. Phàm phu mới phát tín tâm đã ngang nhiên vào thẳng. Thật là chí viên chí đốn không thể so sánh. Hạnh ngộ diệu kinh, nhân duyên chẳng nhỏ. Hạt châu vẫn trong chéo áo, khách tự nhọc nhằn. Dám khuyên các bậc cao lưu đồng tâm tín thọ.

HỎI : Đời Tùy, Tăng Linh Cán tu Hoa Nghiêm quán, lâm chung thấy nước chan hòa, ngồi trên hoa sen lớn. Đã thẳng về Liên tạng, đâu cần gặp Di Đà ?

ĐÁP : Hoa Tạng thế giới có 10 bất khả thuyết Phật sát vi trần số Hương Thủy Hải. Có 10 bất khả thuyết thế giới chủng an trụ. Mỗi thế giới chủng lại có bất khả thuyết thế giới. Tây phương An Lạc cũng ở trong đó. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói : “Trong tâm bay lên, kiêm phước kiêm tuệ lại có tịnh nguyện thì tự nhiên tâm khai, thấy 10 phương Tịnh độ của chư Phật, tùy nguyện vãng sanh”. Chỉ gần Di Đà tức tới Hoa Tạng. Trước có Thiện Tài sau có Long Thọ. Đường lối này ngàn Thánh cùng đi. Không tuân lời Phật dạy, tự khốn khổ trong các đường rẽ, đúng là đáng thương.

Nay lấy việc gần để nêu tỏ. Đời Tống, đất Minh Châu, đạo nhân ở am tranh tu viên đốn giáo quán. Năm Càn Long thứ 3, tháng 4 ngày 17, lão chủ nhân đặt tiệc ăn mừng. Từ biệt đồ chúng rằng : “Hoa Nghiêm thế giới đỗng triệt trạm minh. Rất hợp bản hoài.

Nay ta đi đây”. Bèn khiến đọc bài tán Di Đà :
“Vô biên sát hải, hải hàm không.
Hải không toàn chỉ liên hoa cung
Liên cung chu biến khắp không hải
Không hải độc linh Di Đà dung.
A Di Đà Phật chẳng sanh diệt
Khó tìm khó nắm trăng đáy nước
Tuyệt phi lìa cú thân như thế
Như vậy cảm thông, như vậy nói.
Ta với Di Đà vốn không hai
Vọng giác thầm sanh hốt thành khác
Nếu mà quét sạch không còn bụi
Cha con đương nhẽ lại gặp nhau.
Thề tu ba phước, chăm sáu niệm
Thân miệng ý không một vết nhơ
Ta nay như thế niệm Di Đà
Chẳng thấy Di Đà vẫn không chán.

Tán rồi theo chúng xướng danh hiệu Phật vài trăm câu. Phúng tụng Quán Kinh, đến chỗ thượng phẩm thượng sanh, bèn thâu niệm, ngồi mà thoát.

Đại thần họ Uông bình rằng :
Đây là chính nhân Tịnh độ
Đây là chính tín Hoa Nghiêm.