Home » Tàng Kinh Các » Chứng Đạo Ca

Chứng Đạo Ca

Mục Tàng Kinh Các
Ghi chú của dịch giả: Khúc Ca Chứng Đạo có 266 câu, 56 đoạn. Để tiện theo dõi, người dịch xin chia làm 19 chân trời Thiền.

Huyền Giác Chứng Đạo Ca: thuộc tập T48, Kinh số 2014, Bộ Chư Tông, tổng cộng 1 quyển, Đường Huyền Giác soạn.

Lời Tựa

Bài Chứng Ðạo Ca này giải bầy hết mọi điều tâm đắc của Ðại sư Vĩnh-Gia, kết quả một đời tu hành của ngài. Quí vị chẳng nên chỉ nghe lướt qua, mà phải đọc cho thuộc, kẻo uổng mất giá trị của nó. Ðây là lời khuyên của Thượng Nhân Tuyên Hóa, nhân kỳ thuyết giảng “Vĩnh-Gia Chứng Ðạo Ca,” năm 1985 tại Kim Luân Thánh Tự, Los Angeles, Mỹ Quốc. Với tâm bi thiết tha, và cũng như Ðại sư Vĩnh-Gia, Thượng nhân đã chẳng nề hà, dùng lời phương tiện trỏ thẳng cho chúng ta cái tướng chân thật của viên “Ngọc Ma-ni, ngươi chẳng biết.”

Lần đầu giảng bài ca này tại đất Mỹ là năm 1965, Thượng nhân đã dùng văn ngôn để chú giải, và tập chú thích tựa đề là “Vĩnh-Gia Ðại-sư Chứng Ðạo Ca Thuyên Thích.” Nay, nhằm mục đích quảng bá, giúp các bạn trẻ chưa quen với lối văn cổ, có thể lãnh hội được ý nghĩa của bài ca nói trên, chúng tôi mang các băng ghi âm khóa giảng của Thượng nhân năm 1985 để ấn hành thành tập văn bạch thoại này. Trước khi giảng vào nội dung ca từ, và để ứng hợp với tinh thần của Chứng Ðạo Ca, Thượng nhân đã làm mười bốn câu tụng kệ (nói rõ ở đoạn sau), trong đó có hai câu như sau:

Duy nguyện Tam Bảo thùy gia hộ
Khải ngã chánh giác chuyển pháp luân

Có nghĩa là “nguyện xin Tam Bảo gia hộ, giúp đệ tử được chân chánh giác ngộ đặng chuyển bánh xe pháp.” Cho nên chúng ta thấy, từng chữ Thượng-nhân giảng, đều phát ra tự đáy lòng. Người trỏ thẳng, không nề nà, căn bệnh của chúng ta, khích lệ chúng ta y theo bài ca mà tu hành. Người dạy chúng ta như sau: “Nếu quí vị đọc bài ca, thuộc lòng một cách trôi chảy, tự nhiên sẽ thông đạt, thấu hiểu đạo lý của nó.”

Thấu hiểu đạo lý gì vậy? Chính là đạo lý liễu tri sanh tử bất tương quan, nghĩa là mới hay sống chết chẳng tương can. Khi gặp một hoàn cảnh khó khăn, lấy một đoạn của “Chứng Ðạo Ca” ra đọc, tâm của chúng ta sẽ trở lại bình thản, vậy là cảnh ngộ dù khó khăn cũng có thể vượt qua. Thí dụ gặp chuyện oan ức, hoặc có ai nói xấu, chúng ta chỉ cần nhớ câu “mặc ai báng, mặc ai dèm, châm lửa đốt trời nhọc xác thêm”; như có ai mắng ta, thì đã có câu “ngẫm lời ác, ấy công đức, đấy mới chính là thầy ta thực.”

Giả tỷ chúng ta sợ sau khi chết sẽ bị luân hồi trong lục đạo, chúng ta sẽ phải tin theo lời của Ðại sư Vĩnh-Gia trong câu: “Chứng thực tướng, không nhân pháp, sát-na rũ sạch a-tỳ nghiệp… Trong mộng lao xao bầy sáu nẻo, tỉnh ra bằng bặt chẳng ba ngàn.”

Khi đã hiểu thấu thời chúng ta phải gắng tu tập, như Ðại sư đã nói: “Không cầu chân, không dứt vọng… Tâm là căn, pháp là trần… Tâm pháp cùng quên tánh rõ chân.”

Ðối với vị nào chỉ biết nghiên cứu kinh giáo, mà không dụng công tu tâm dưỡng tánh, nghĩa là không biết y theo giáo lý mà phụng hành tu tập, Vĩnh-Gia Ðại sư đã có lời chỉ bảo: “Phân biệt danh tướng mãi không thôi… Châu báu của người có ích gì?”

Trong bài Chứng Ðạo Ca, mỗi câu là một tiếng chuông cảnh tỉnh người học Phật pháp. Nếu có người lại nghĩ rằng bài ca này dành cho những người tu sĩ xuất gia mới đúng, còn như người thường thì khỏi bàn tới, như vậy chúng ta nên đọc câu sau đây: “Thầy ta được thấy Nhiên-Ðăng Phật, bao kiếp từng làm tiên nhẫn nhục,” để hiểu rằng muốn thành Phật phải tu nhân tích lũy công đức. Ðại sư Vĩnh-Gia cũng nói: “Ta sớm từng qua bao kiếp tu, nào dám sai ngoa lời dối mị.”

Ðại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong “Chứng Ðạo Ca” là để dẫn chúng ta “Chứng thực tướng, không nhân pháp,” đưa thẳng chúng ta vào pháp môn nhất thừa, tới chỗ ngộ đạo. Ðại sư nói: “Bằng đem lời vạy dối chúng sanh, tội rút lưỡi nguyện mang cùng kiếp.” Một tâm lượng Bồ-tát, tự lợi lợi tha như vậy không lẽ chúng ta không thấy lòng rung động sao? Vậy còn chờ gì mà chúng ta không nghiên cứu, không đọc tụng?

Quốc Tế Dịch Kinh Học Viện
Ðêm trước ngày lễ “Tắm Phật,” năm 1991

Vĩnh Gia Chứng Ðạo Ca
Sa-Môn Huyền Giác soạn

CHỨNG ĐẠO CA

1. Quân bất kiến,
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân.
Vô minh thực tánh tức Phật tánh,
Ảo hóa không thân tức pháp thân.

2. Pháp thân giác liễu vô nhất vật,
Bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật,
Ngũ ấm phù vân không khứ lai,
Tam độc thủy bào hư xuất một.

3. Chứng thực tướng vô nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.

4. Ðốn giác liễu Như Lai thiền,
Lục độ vạn hạnh thể trung viên.
Mộng lý minh minh hữu lục thú,
Giác hậu không không vô đại thiên.

5. Vô tội phước, vô tổn ích,
Tịch diệt tánh trung mạc vấn mịch.
Tỷ lai trần kính vị tằng ma,
Kim nhật phân minh tu phẫu tích.

6. Thùy vô niệm? thùy vô sinh?
Nhược thực vô sinh, vô bất sinh.
Hoán thủ cơ quan mộc nhân vấn,
Cầu Phật thi công tảo vãn thành?

7. Phóng tứ đại, mạc bả tróc,
Tịch diệt tính trung tùy ẩm trác
Chư hành vô thường nhất thiết không
Tức thị Như Lai đại viên giác.

8. Quyết định thuyết, biểu chân Tặng
Hữu nhân bất khẳng nhiệm tình trưng.
Trực triệt căn nguyên Phật sở ấn,
Trích diệp tầm chi ngã bất năng.

9. Ma-ni châu, nhân bất thức,
Như Lai Tàng lý thân thâu đắc.
Lục ban thần dụng không bất không
Nhất lỏa viên quang sắc phi sắc.

10. Tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực,
Duy chứng nãi tri nan khả trắc.
Kính lý khán hình kiến bất nan,
Thủy trung tróc nguyệt tranh niêm đắc.

11. Thường độc hành, thường độc bộ,
Ðạt giả đồng du Niết-bàn lộ.
Ðiều cổ thần thanh phong tự cao,
Mạo tụy cốt cương nhân bất cố.

12. Cùng Thích-tử, khẩu xưng bần,
Thực thị thân bần đạo bất bần.
Bần tắc thân thường phi lũ hạt,
Ðạo tắc tâm tàng vô giá trân.

13. Vô giá trân, dụng vô tận,
Lợi vật ứng cơ chung bất lận.
Tam thân tứ trí thể trung viên,
Bát giải lục thông tâm địa ấn.

14. Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu,
Trung hạ đa văn đa bất tín.
Ðản tự hoài trung giải cấu y,
Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tấn.

15. Tòng tha báng, nhiệm tha phi,
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bị.
Ngã văn cáp tự ẩm cam lồ,
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghị.

16. Quán ác ngôn, thị công đức,
Thử tắc thành ngô thiện tri thức.
Bất nhân san báng khởi oán thân,
Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực.

17. Tông diệc thông, thuyết diệc thông,
Ðịnh huệ viên minh bất trệ không.
Phi đản ngã kim độc đạt liễu,
Hằng sa chư Phật thể giai đồng.

18. Sư tử hống, vô úy thuyết,
Bách thú văn chi giai não liệt.
Hương tượng bôn ba thất khước uy,
Thiên long tịch thính sinh hân duyệt.

19. Du giang hải, thiệp sơn xuyên,
Tầm sư phỏng đạo vị tham thiền.
Tự tòng nhận đắc Tào-Khê lộ,
Liễu tri sinh tử bất tương quan.

20. Hành diệc thiền, tọa diệc thiền,
Ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên.
Túng ngộ phong đao thường thản thản,
Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.

21. Ngã sư đắc kiến Nhiên-Ðăng Phật,
Ða kiếp tằng vi nhẫn nhục tiên.
Kỷ hồi sinh? kỷ hồi tử?
Sinh tử du du vô định chỉ.

22. Tự tòng đốn ngộ liễu vô sinh,
Ư chư vinh nhục hà ưu hỷ.
Nhập thâm sơn, trú lan nhã,
Sầm cương u thúy trường tùng hạ.
Ưu du tĩnh tọa dã tăng gia,
Khuých tịch an cư thực tiêu sái.

23. Giác tức liễu, bất thi công,
Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng.
Trú tướng bố thí sanh thiên phước,
Do như ngưỡng tiễn xạ hư không.
Thế lực tận, tiễn hoàn đọa,
Chiêu đắc lai sanh bất như ý.
Tranh tự vô vi thực tướng môn,
Nhất siêu trực nhập Như Lai địa.

24. Ðản đắc bổn, mạc sầu mạt,
Như tịnh lưu-ly hàm bảo nguyệt.
Ký năng giải thử như ý châu,
Tự lợi lợi tha chung bất kiệt.
Giang nguyệt chiếu, tùng phong xuy,
Vĩnh dạ thanh tiêu – hà sở vi.

25. Phật tánh giới châu tâm địa ấn,
Vụ lộ vân hà thể thượng y.
Hàng long bát, giải hổ tích,
Lưỡng cổ kim hoàn minh lịch lịch.
Bất thị tiêu hình hư sự trì,
Như Lai bảo trượng thân tung tích.

26. Bất cầu chân, bất đoạn vọng,
Liễu tri nhị pháp không, vô tướng.
Vô tướng, vô không vô bất không,
Tức thị Như Lai chân thực tướng.

27. Tâm kính minh, giám vô ngại,
Khuếch nhiên oánh triệt châu sa giới.
Vạn tượng sâm la ảnh hiện trung,
Nhất lỏa viên quang phi nội ngoại.

28. Khoát đạt không, bát nhân quả,
Mảng mảng đãng đãng chiêu ương họa.
Khí hữu trước không bệnh diệc nhiên,
Hoàn như tị nịch nhi đầu hỏa.

29. Xả vọng tâm, thủ chân lý,
Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy.
Học nhân bất liễu dụng tu hành,
Chân thành nhận tặc tương vi tử.

30. Tổn pháp tài, diệt công đức,
Mạc bất do tư tâm ý thức.
Thị dữ thiền môn liễu khước tâm,
Ðốn nhập vô sanh tri kiến lực.

31. Ðại trượng phu, bỉnh huệ kiếm,
Bát-nhã phong hề kim cang diệm.
Phi đản không thôi ngoại đạo tâm,
Tảo hội lạc khước thiên ma đởm.

32. Chấn pháp lôi, kích pháp cổ,
Bố từ vân hề sái cam lồ.
Long tượng xúc đạp nhuận vô biên,
Tam thừa ngũ tánh giai tỉnh ngộ.
Tuyết sơn phì nhị cánh vô tạp,
Thuần xuất đề-hồ ngã thường nạp.
Nhất tánh viên thông nhất thiết tánh,
Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp,
Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy,
Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp
Chư Phật pháp thân nhập ngã tánh,
Ngã tánh đồng cộng Như Lai hợp.

33. Nhất địa cụ túc nhất thiết địa,
Phi sắc phi tâm phi hành nghiệp.
Ðàn chỉ viên thành bát vạn môn,
Sát-na diệt khước tam kỳ kiếp.
Nhất thiết số cú phi số cú,
Dữ ngô linh giác hà giao thiệp.

34. Bất khả hủy, bất khả tán,
Thể nhược hư không vật nhai ngạn.
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên,
Mịch tức tri quân bất khả kiến.
Thủ bất đắùc, xả bất đắc,
Bất khả đắc trung chỉ ma đắc.
Mặc thời thuyết, thuyết thời mặc,
Ðại thí môn khai vô ủng tắc.

35. Hữu nhân vấn ngã giải hà tông?
Báo đạo ma-ha bát-nhã lực.
Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức,
Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc.

36. Ngô tảo tằng kinh đa kiếp tu,
Bất thị đẳng nhàn tương cuống hoặc.
Kiến pháp tràng, lập tông chỉ,
Minh minh Phật sắc Tào-Khê thị.

37. Ðệ nhất Ca-diếp thủ truyền đăng,
Nhị thập bát đại Tây thiên ký.
Pháp đông lưu, nhập thử độ,
Bồ-đề Ðạt-ma vi Sơ tổ.
Lục đại truyền y thiên hạ văn,
Hậu nhân đắc đạo hà cùng số.

38. Chân bất lập, vọng bổn không,
Hữu vô câu khiển bất không không.
Nhị thập không môn nguyên bất trước,
Nhất tánh Như Lai thể tự đồng.

39. Tâm thị căn, pháp thị trần,
Lưỡng chủng do như kính thượng ngân.
Ngân cấu tận trừ quang thủy hiện,
Tâm pháp song vong tánh tức chân.

40. Ta mạt pháp! ác thời thế!
Chúng sanh phước bạc nan điều chế.
Khứ thánh viễn hề tà kiến thâm,
Ma cường pháp nhược đa oán hại.
Văn thuyết Như Lai đốn giáo môn,
Hận bất diệt trừ lệnh ngõa toái.

41. Tác tại tâm, ương tại thân,
Bất tu oán tố cánh vô nhân.
Dục đắc bất chiêu vô gián nghiệp,
Mạc báng Như Lai chánh pháp luân.

42. Chiên đàn lâm, vô tạp thụ,
Uất mật sâm trầm sư tử trú.
Cảnh tĩnh lâm gian độc tự du,
Tẩu thú phi cầm giai viễn khứ.

43. Sư tử nhi, chúng tùy hậu,
Tam tuế tiện năng đại hao hống.
Nhược thị dã can trục pháp vương,
Bách niên yêu quái hư khai khẩu.

44. Viên đốn giáo, một nhân tình,
Hữu nghi bất quyết trực tu tranh.
Bất thị sơn tăng sính nhân ngã,
Tu hành khủng lạc đoạn trường khanh.

45. Phi bất phi, thị bất thị,
Sai chi hào ly thất thiên lý.
Thị tắc Long Nữ đốn thành Phật,
Phi tắc Thiện Tinh sanh hãm trụy.

46. Ngô tảo niên lai tích học vấn,
Diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận.
Phân biệt danh tướng bất tri hưu,
Nhập hải toán sa đồ tụ khốn.
Khước bị Như Lai khổ kha trách,
Sổ tha trân bảo hữu hà ích.
Tòng lai thặng đặng giác hư hành,
Ða niên uổng tác phong trần khách.

47. Chủng tánh tà, thố tri giải,
Bất đạt Như Lai viên đốn chế.
Nhị thừa tinh tấn một đạo tâm,
Ngoại đạo thông minh vô trí huệ.
Diệc ngu si, diệc tiểu ngãi,
Không quyền chỉ thượng sanh thực giải.
Chấp chỉ vi nguyệt uổng thi công,
Căn cảnh pháp trung hư niết quái.

48. Bất kiến nhất pháp tức Như Lai,
Phương đắc danh vi Quán Tự Tại.
Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không,
Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.

49. Cơ phùng vương thiện bất năng san,
Bệnh ngộ y vương tranh đắc sái.
Tại dục hành thiền tri kiến lực,
Hỏa trung sanh liên chung bất hoại.
Dũng thi phạm trọng ngộ vô sanh,
Tảo thời thành Phật vu kim tại.

50. Sư tử hống, vô úy thuyết,
Thâm ta mộng đổng ngoan bì đát.
Chỉ tri phạm trọng chướng bồ-đề,
Bất kiến Như Lai khai bí quyết.

51. Hữu nhị Tỳ-khưu phạm dâm sát,
Ba-ly huỳnh quang tăng tội kết.
Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi,
Do như xích nhật tiêu sương tuyết.

52. Bất tư nghì, giải thoát lực,
Diệu dụng Hằng sa dã vô cực.
Tứ sự cung dưỡng cảm từ lao,
Vạn lưỡng hoàng kim diệc tiêu đắc.
Phấn cốt toái thân vị túc thù,
Nhất cú liễu nhiên siêu bá ức.

53. Pháp Trung vương, tối cao thắng,
Hằng sa Như Lai đồng cộng chứng.
Ngã kim giải thử như ý châu,
Tín thọ chi giả giai tương ứng.

54. Liễu liễu kiến, vô nhất vật,
Diệc vô nhân, diệc vô Phật.
Ðại thiên sa giới hải trung âu,
Nhất thiết thánh hiền như điển phất.

55. Giả sử thiết luân đỉnh thượng toàn,
Ðịnh huệ viên minh chung bất thất.
Nhật khả lãnh, nguyệt khả nhiệt,
Chúng ma bất năng hoại chân thuyết.
Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ,
Thùy kiến đường lang năng cự triệt.

56. Ðại tượng bất du ư thỏ kính,
Ðại ngộ bất câu ư tiểu tiết.
Mạc tương quản kiến báng thương thương
Vị liễu ngô kim vi quân quyết.

o0o

KHÚC CA CHỨNG ĐẠO

I. Như-lai Vô thượng thiền
Anh thấy chăng:
Dứt học, vô vi ấy đạo nhân,
Không trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân.
Tánh thực vô minh tức Phật tánh,
Thân không ảo hóa tức pháp thân.
Pháp thân giác rồi không một vật,
Bổn nguồn tự tánh thiên chân Phật.
Năm ấm ảo hư: mây lại qua,
Ba độc huyễn hoặc: bọt còn mất.
Chứng thực tướng, không nhân pháp,
Sát-na rũ sạch a-tỳ nghiệp.
Bằng đem lời vọng dối chúng sanh,
Tội rút lưỡi nguyện mang cùng kiếp.

II. Cảnh giới tự chứng
Thoắt giác rồi Như Lai thiền,
Sáu độ muôn hạnh thể tròn nguyên.
Trong mộng lao xao bầy sáu nẻo,
Tỉnh ra bằng bặt chẳng ba ngàn.
Không tội phước, không thêm bớt,
Tánh mình vắng lặng đừng hỏi bắt.
Bấy lâu gương bụi chửa từng lau,
Này lúc rõ phân cần dứt khoát.
Ai không niệm, ai không sanh?
Ví thực không sanh, không chẳng sanh
Gọi người gỗ hỏi nguồn cơn ấy,
Cầu Phật ra công sớm sẽ thành.
Buông bốn đại, đừng nắm bắt,
Tánh mình vắng lặng tùy ẩm trác.
Muôn vật vô thường thảy thảy không
Ðấy chính Như Lai thật viên giác.

III. Đại ý chí
Dám nói quyết rõ chân Tăng,
Còn ai chẳng khứng cứ nghiên tầm.
Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật,
Chọn lá tìm cành ta chẳng đang
Ngọc ma-ni, ngươi có biết,
Như Lai kho ấy thâu trọn hết.
Sáu ban thần dụng không chẳng không,
Một điểm viên quang sắc chẳng sắc.
Tịnh năm mắt, được năm lực,
Có chứng mới hay không lượng được
Trong gương ngắm ảnh dễ thấy hình,
Ðáy nước mò trăng không nắm nguyệt.

IV. Con đường Niết -bàn
Thường một mình, thường tản bộ,
Ðạt giả lại qua Niết-bàn lộ.
Ðiệu xưa thần nhẹ dáng thanh thanh,
Xương cứng thân gầy ai chiếu cố.
Hèn con Phật miệng xưng nghèo,
Rõ thực thân nghèo đạo chẳng nghèo.
Nghèo ắt thân thường manh áo chắp,
Ðạo ắt hằng châu báu đeo.
Châu báu đeo, dùng chẳng hết,
Tùy duyên rải khắp thèm keo kiết.
Ba thân bốn trí thể tròn nguyên,
Tám giải sáu thông tâm ấn hiệp.
Bậc cao một quyết là xong hẳn,
Kẻ thấp càng nghe lại lắm ngờ.
Hãy vứt trong lòng manh áo bẩn,
Sá gì tinh tấn hướng ngoài khoe.

V. Chuyển Phẩm chướng đạo thành Phẩm trợ đạo
Mặc ai biếm, mặc ai dèm,
Châm lửa đốt trời nhọc xác thêm.
Ta nghe như uống cam lồ vậy,
Tan hết vào trong chẳng nghĩ bàn.
Xét lời ác ấy công đức,
Ðó mới chính là thầy ta thực.
Chớ vì báng bổ khởi oán, thân,
Sao tỏ vô sanh, nêu nhẫn lực.

VI. Tông thông thuyết thông
Tông cũng thông thuyết cũng thông,
Ðịnh huệ sáng tròn chẳng trệ không.
Nào phải mình ta riêng đạt đấy,
Hằng sa chư Phật thể chung đồng.
Sư tử hống thuyết vô úy,
Trăm thú nghe qua xé óc tủy.
Hương tượng chạy dài hết liệt uy,
Thiên long lặng ngóng lòng hoan hỷ.

VII. Tâm ấn Tào-khê
Chơi biển cả dạo rừng thiêng,
Tìm thầy hỏi lấy đạo tham thiền.
Từ ngày rõ nẻo Tào-khê ấy,
Mới hay sống chết chẳng tương can.
Ði cũng thiền, ngồi cũng thiền,
Nói im động tĩnh thảy an nhiên.
Phỏng gặp gươm đao thường nhẹ hững,
Ví nhằm thuốc độc vẫn bồng tênh.

VIII. Tự giác
Thầy ta được thấy Nhiên-đăng Phật,
Bao kiếp từng làm tiên nhẫn nhục.
Mấy hồi tử, mấy hồi sanh?
Sanh tử mơ màng không định dứt!
Tự thời thoắt ngộ pháp vô sanh,
Cơn vinh nhục mừng lo gì tá.
Vào rừng sâu ở Lan-nhã,
Núi dựng tùng già ôm bóng cả,
Thong dong ngồi tịnh mái chùa tranh,
Cảnh lặng lòng yên thanh thoát lạ!
Biết là xong tất chẳng cần công,
Thảy thảy hữu vi pháp chẳng đồng.
Của cho trụ tướng phước trời hưởng,
Ví như tên bắn nhắm hư không.
Ðà bắn hết mũi tên rơi,
Kiếp sau hận cũ lại bời bời,
Sao bằng tự cửa vô vi ấy,
Một nhảy vào liền đất Như Lai

IX. Giác tha
Cốt ở gốc lo chi cành,
Như ngọc lưu ly ngậm ánh trăng.
Ðã hay thấu được châu như ý,
Lợi ta lợi người không biết mấy.
Trăng sông tỏ, gió tùng lay,
Ðêm trường thanh vắng để chi đây?
Ngọc giới hạnh, tâm in, tánh tỏ,
Trên mình mây ráng khoác làm y.
Bát thâu rồng gậy giải cọp,
Hai dãy khoen vàng khua lảnh lót,
Phải đâu hư sự giữ làm vì,
Gậy báu Như Lai dấu tự ghi.

X. Đất Như-lai
Không cầu chân, chẳng dứt vọng,
Mới hay chân vọng không, chẳng tướng.
Chẳng tướng, chẳng không không chẳng không,
Ấy mới Như Lai chân thực tướng.
Gương tâm sáng, soi chẳng ngại,
Suốt thông chiếu khắp hằng sa giới.
Muôn tượng um tùm ảnh hiện trong,
Một điểm viên quang không nội ngoại.
Ðắm ngoan không, phá nhân quả,
Bừa bãi, rối ren, càng thêm họa.
Bỏ có, níu không, bệnh vẫn nguyên,
Khác nào trốn nước sa vào lửa.
Buông vọng tâm, giữ chân lý,
Buông giữ tâm hoàn tâm xảo ngụy.
Ðạo nhân chẳng rõ dốc lòng tu,
Chân thành nhận giặc làm con quý.
Tốn pháp tài, dứt công đức,
Chỉ vì điên đảo theo vọng thức.
Cho nên thiền pháp dạy thông tâm,
Thoắt chứng vô sanh sáng trí Phật.

XI. Hành Như-lai sự
Ðại truợng phu cầm kiếm huệ,
Ánh Bát-nhã hề kim cương lóe.
Ðã hay ngoại đạo bạt tâm mê,
Lại khiến thiên ma lùi khiếp vía.
Nổi pháp lôi, đánh pháp cổ,
Bủa mây từ hề rưới cam lồ.
Voi rồng dẫm bước nhuận ân sâu,
Năm tánh ba thừa đều tỉnh ngộ.

XII. Vô trụ Niết-bàn
Cỏ phì-nhị đơm ròng đỉnh Tuyết,
Vị đề-hồ ta từng nếm biết.
Một tánh viên thông muôn tánh hệt
Một pháp bao gồm muôn pháp hết,
Một trăng hiện khắp tất cả nước,
Tất cả trăng nước một trăng nhiếp,
Chư pháp thân Phật vào tánh ta,
Tánh ta cùng với Như Lai hiệp.
Một địa gồm đủ tất cả địa,
Chẳng sắc chẳng tâm chẳng hạnh nghiệp.
Búng tay, tám vạn pháp môn thành,
Nháy mắt rủ xong ba kỳ kiếp.
Tất cả văn tự chẳng văn tự,
Cùng linh giác ấy nào can dự?
Không thể chê không thể khen,
Như hư không ấy vốn vô biên.
Tìm kiếm đã hay không thấy được,
Mà luôn trước mắt vẫn thường nhiên.
Lấy chẳng được, bỏ chẳng được,
Trong cái chẳng được gì là được.
Im thời nói, nói thời im,
Cửa đại thí mở thông thông suốt.
Có người hỏi ta giải tông nào,
Xin thưa: Ma-ha-bát-nhã lực.
Làm ngược làm xuôi trời biết đâu,
Rằng phải rằng trái ai rõ được.

XIII. Truyền tâm pháp yếu
Ta sớm từng qua bao kiếp tu,
Nào dám sai ngoa lời dối mị.
Dựng pháp tràng, lập tông chỉ,
Rõ ràng tâm Phật ứng Tào-khê.
Thoạt tiên Ca-diếp đèn tâm truyền,
Hăm tám đời tổ sư Tây thiên.
Pháp sang đông vào trung thổ,
Bồ-đề Ðạt-ma là sơ tổ.
Sáu đời y bát thiên hạ nghe,
Người sau được đạo nhiều vô số.
Chân chẳng lập, vọng vốn không,
Hữu vô dứt trọn chẳng không không.
Hai chục cửa không nguyên chẳng chấp,
Một tánh Như Lai vốn thể đồng.
Tâm là căn, pháp là trần,
Thảy đều ngấn bụi ám gương trong.
Bao giờ ngấn hết gương trong lại,
Tâm pháp cùng quên tánh rõ chân.

XIV. Ma chướng thời mạt pháp
Ôi mạt pháp! Ác thời thế!
Chúng sanh phước mỏng không cầm chế.
Hiền thánh xa rồi tà vạy sâu,
Ma mạnh pháp yếu nhiều ác tệ,
Nghe nói Như Lai phép đốn tu,
Hận chẳng nghiền tan như ngói bể.
Tại tâm làm, tại thân chịu,
Ðừng có kêu oan chớ trách người.
Muốn khỏi nghiệp vương muôn kiếp lụy,
Vành xe chánh pháp chớ chê cười.

XV. Khí tượng Phật thừa
Rừng chiên đàn không tạp thụ,
Sâu kín um tùm sư tử trú.
Cảnh vắng rừng im một mình chơi,
Cao chạy xa bay chim cùng thú.
Sư tử con, chúng theo mẹ,
Tuổi mới lên ba đà hống khỏe.
Chó rừng dầu bén gót Pháp vương,
Trăm năm yêu quái há mồm suông!

XVI. Pháp Viên đốn
Pháp viên đốn vượt tình thường,
Một niềm ngờ vực quyết không vương.
Sãi tôi đâu sính bàn nhân ngã,
Sợ lạc đường tu hố đoạn thường.
Thị chẳng thị, phi chẳng phi,
Sai lạc đường tơ ngàn dặm đi.
Thị: đấy Long nữ thoắt thành Phật,
Phi: đấy Thiện tinh rơi địa ngục.

XVII. Chứng tích cá nhân
Ta sớm bao năm chuyên học vấn,
Từng viết sớ sao tìm kinh luận,
Phân biệt danh tướng mãi không thôi,
Vào biển đếm cát tự chuốc hận,
Quả đáng bị Như Lai quở trách,
Châu báu của người có gì ích?
Lâu nay đắng đót rõ công suông,
Uổng bấy làm thân phong trần khách!
Tánh tà vạy, giải lạc lầm,
Chẳng được pháp Như Lai đốn chế.
Hai thừa tinh tấn thiếu đạo tâm,
Ngoại đạo thông minh không trí huệ.
Như trẻ dại, như ngu si,
Thấy nắm tay không quyền tưởng thiệt,
Chấp lấy ngón tay làm mặt nguyệt,
Bóng ma căn cảnh uổng công ghi!
Chẳng thấy một pháp tức Như Lai,
Nên cũng kêu là Quán Tự Tại.
Tỏ rồi, nghiệp chướng hóa thành không,
Chưa tỏ, nợ xưa đành trang trải.
Ðói gặp tiệc vua không thể ăn,
Bệnh tránh Y vương sao mạnh được?
Thiền trong biển dục rõ kiến lực,
Sen trong lửa đỏ muôn đời rực.
Dõng Thi phạm giới chứng vô sanh,
Sớm vẫn viên thành trong cõi tục.

XVIII. Duy-Ma Sư tử hống
Sư tử hống thuyết vô úy,
Thương thay ai vẫn mê mờ tối,
Mảng e tội chướng lấp bồ đề,
chẳng được Như Lai mở kho bí.
Có hai tỳ-kheo phạm dâm sát,
Dóm huỳnh Ba-ly thêm buộc xiết.
Bồ-tát Duy-ma chốc giải ngờ,
Như vừng dương hực tiêu sương tuyết.
Bàn nghĩ chi sức giải thoát,
Diệu dụng Hằng hà như số cát.
Bốn sự cúng dường dẫu nhọc bao,
Muôn lượng vàng ròng dầu tiêu hết,
Thịt tan xương nát chửa đền xong,
Một câu thấu suốt siêu ngàn ức.

XIX. Pháp vương vương pháp
Ðấng Pháp vương, bậc tối thắng,
Hằng sa Như Lai cùng chung chứng.
Ta nay giải vậy Như-ý châu,
Người người tin nhận đều tương ứng.
Suốt suốt thấy không một vật,
Cũng không người, cũng không Phật.
Thế giới ba ngàn bọt nước xao,
Mỗi mỗi thánh hiền như điện phất.
Ví phỏng thiết luân trên đầu chuyển,
Ðịnh huệ sáng tròn luôn chẳng biến.
Nguyệt dầu thành lửa, nhật thành băng,
Ma nào phá được chân thuyết hiện.
Xe voi dốc ngược vững đường lên,
Sức mấy bọ trời ngăn bước tiến?
Voi lớn đâu thèm đi dấu thỏ,
Ngộ lớn sá gì chút tiết nhỏ.
Ðừng dòm trong ống biếm trời xanh,
Chưa tỏ, vì anh ta mở rõ.

Trúc Thiên dịch.