Home » Tưởng Niệm » Vô Thường Bịnh Lão

Vô Thường Bịnh Lão

Mục Tưởng Niệm

Khi chưa thọ giới Sa Di, vào những năm 1964, 1965 tại chùa Phước Lâm ở Hội An, tôi được Sư Chú Hạnh Thu chỉ cho cách học Quy Sơn Cảnh Sách, cũng như các luật nghi khác để chuẩn bị đi thọ Sa Di vào năm 1967 tại Đà Nẵng. Khi học đến câu:

Vô thường bịnh lão
Bất dữ nhơn kỳ
Triêu tồn tịch vong
Sát na dị thế
Thí như xuân sương hiểu lộ
Thức hốt tức vô
Ngạn thọ tỉnh đằng
Khởi năng trường cửu…
Nghĩa:
Vô thường già bịnh
Chẳng đợi chờ ai
Sớm còn tối mất
Biến đổi từng hồi
Giống như sương mùa Xuân thấy đó
Bỗng chốc chẳng còn
Cây bên miệng giếng
Sao có thể dài lâu…

Chỉ chừng ấy thôi cũng để cho tâm tôi tỉnh ngộ. Thật ra cái tỉnh của tuổi 15,16 nó không như bây giờ. Càng lớn, càng già thì những ý nghĩa của những câu văn Cảnh Sách nầy lại càng có giá trị nhiều hơn nữa. Nó giống như thuốc bổ ngấm lịm dần vào trong từng thớ thịt của thân và ý niệm của tâm. Khi nhỏ, học để mà học, đọc để mà đọc, tụng để mà tụng, chứ ý nghĩa thì còn mơ hồ lắm. Đến khi về già ngẫm lại những lời dạy của Tổ Quy Sơn Linh Hựu Thiền Sư thật là ý vị vô cùng. Ai không biết vô thường, nhưng nhiều khi chúng ta nghĩ rằng vô thường ấy nó đến với người khác chứ chưa đến với mình. Nếu có chăng đi nữa thì cũng chưa đến với ta. Làm như mình là người ngoại lệ vậy. Ngài Quy Sơn nói rất rõ “Nó không chờ đợi ai hết cả”. Điều ấy có nghĩa là: Dầu trẻ, dầu già, khi cơn vô thường đến, hít vào mà không thở ra thì đã gọi là chết rồi, đâu cần phải gọi là 20, 30, 40 hay 80 hoặc 100 tuổi. Số tuổi dầu có ít hay nhiều, nó cũng giống như buổi sáng thì còn đó, nhưng buổi tối đã hết rồi. Thân thể và tâm thức nầy nó biến hiện trong từng sát na, nhưng chúng ta nào có ai hay biết. Nó cũng giống như những giọt sương ban mai của mùa Xuân lấp lánh trên đầu cây ngọn cỏ, trông rất đẹp mắt, nhưng bỗng chốc lại tan đi, chẳng khác nào cây bám rễ bên bờ miệng giếng thì làm sao có thể tồn tại lâu dài được…

Đó là ý nghĩa của đoạn văn trên. Tôi vẫn mãi nằm lòng, dầu cho bây giờ đã sắp đến cái tuổi thất thập cổ lai hy rồi, khi chiêm nghiệm lại vẫn thấy giá trị vô cùng. Sanh già, bệnh chết là một định luật mà không ai trong chúng ta có thể vượt qua khỏi, hay xem thường chúng. Nguyên lý nầy Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy, chứ thực ra trước khi Đức Phật ra đời, con người cũng đã bị luật vô thường nầy chi phối rồi, chẳng phải chờ đến hôm nay chúng ta mới biết. Rồi ngày mai đây, hằng trăm, hàng ngàn năm nữa cũng thế thôi. Biết để rồi biết chứ khó chấp nhận nó. Bởi vì “Biết thân ta vẫn biết, nhưng tiếc thân ta vẫn tiếc” là vậy. Cho đến khi nào con người liễu ngộ được điều nầy thì lời dạy của Đức Phật sẽ trở nên một giá trị miên viễn cho cuộc đời nầy.

Tôi cũng đã chứng kiến không biết bao nhiêu sự ra đi của rất nhiều người, già có, trẻ có, Tăng có, tục có. Từ người cao sang phú quý cho đến kẻ bần cùng… hầu như tôi đều có mặt trong rất nhiều cơ hội như vậy để chia sẻ những sự mất mát với những người thân, những Phật Tử hay với Môn Đồ Pháp Quyến của một vài vị Trưởng Lão ở trong cũng như ngoài nước. Hôm nay bài nầy tôi viết để tưởng niệm cố Hòa Thượng Thích Như Huệ tại Úc Châu, vốn là vị Thầy Giáo Thọ của tôi từ những năm 1964 đến năm 1968 tại Hội An trong những mùa An Cư Kiết Hạ hay những giờ học Giáo Lý tại trường Trung Học Bồ Đề Hội An thuở nào.

Chiều ngày 23 tháng 6 năm 2016 Thượng Tọa Nguyên Tạng từ Úc có gọi cho tôi nhiều lần để báo tin rằng Hòa Thượng Thích Như Huệ, Phương Trượng Tổ Đình Pháp Hoa ở Nam Úc đã viên tịch, nhưng tôi và Thầy Hạnh Giới lúc ấy đang chỉnh sửa bài vở tại Vô Học Cốc, nên đã không nghe được tin nầy, mãi cho đến giữa khuya hôm đó bên Úc, Thầy gọi cho tôi một lần nữa, thì mọi việc đã được an bài. Nghĩa là Hòa Thượng đã thực sự ra đi, thế thọ 83 tuổi và Ngài tu học trên dưới 70 năm kể cả thời gian ở trong nước và ở hải ngoại. Đây là một sự mất mát không nhỏ đối với đồng bào Phật Tử Việt Nam tại Úc, cũng như cho Môn Đồ Pháp Quyến của Ngài. Phần tôi phải lo chuẩn bị sắp xếp để đi dựTang lễ của Ngài vào ngày 30 tháng 6 năm 2016 tại Adelaide, Nam Úc. Mặc dầu tôi mới vừa ra khỏi bệnh viện, sau cuộc giải phẫu Tiền Liệt Tuyến lần thứ hai mới mấy ngày (16.6.2016), nhưng tôi quyết định đi Úc.Có nhiều Đệ Tử lo ngại cho sức khỏe của tôi, nên có ý ngăn cản, nhưng tôi bảo rằng “Ơn nghĩa nghìn trùng của Hòa Thượng, làm sao tôi có thể đáp đền được, nếu ngày di quan không có mặt tôi, sẽ là sự thiếu sót vô cùng” cho nên mọi người đã hiểu và muốn cử quý Thầy Thị giả đi theo cùng, nhưng tôi đã khoát tay và bảo rằng “Thầy có thể tự lo liệu lấy”. Từ Đức muốn qua Úc, phải mất ít nhất là 24 đến 26 giờ ngồi trên máy bay, đó là chưa kể đến những giờ chờ đợi. Do vậy mà ai cũng ngán đi Úc. Càng già thì lại càng ngán ngẫm hơn với khoảng thời gian như vậy. Cuối cùng thì tôi, Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt, Thầy Quảng Đạo và Cô Diệu Trạm đã đến phi trường Adelaide vào tối ngày 28 tháng 6 năm 2016 vừa qua để tham dự Tang lễ của Ngài. Năm nay cũng là năm tôi bỏ việc tham dự sinh nhật của chính mình được tổ chức tại chùa Linh Thứu ở Berlin, nhân việc họp Chi Bộ thường niên của chư Tăng Ni Việt Nam ở Đức và tôi cũng bỏ luôn việc chủ trì khóa tu gieo duyên tại chùa Viên Giác Hannover từ ngày 1 đến ngày 10 tháng 7 năm nay, để chỉ một mục đích duy nhất là tham gia Tang lễ của Hòa Thượng Ân sư, Trưởng Lão Thích Như Huệ.

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan đứng ra lo Tang lễ, còn Môn Đồ Pháp Quyến chỉ giữ nhiệm vụ lo việc “Tứ sự cúng dường” cho chư Tôn Đức Tăng Ni đến tham dự lễ; mọi việc đáp từ, cũng như cách tổ chức đều có Giáo Hội đảm đang. Trên từ Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng Thích Huyền Tôn đến chư Tôn Đức Tăng Ni trong Giáo Hội tại Úc Đại Lợi cũng như Tân Tây Lan đều hiện diện. Dưới là những vị cư sĩ thuần thành hộ pháp tại các Tiểu Bang cũng đều có mặt. Đặc biệt là Giáo Hội của Bốn Châu gồm: Âu, Úc, Mỹ và Canada đều hiện diện để nói lên tình liên kết của Giáo Hội Liên Châu. Đặc biệt hơn nữa là có Ông Lê Văn Hiếu đại diện cho Toàn Quyền Nam Úc (chỉ dưới quyền của Nữ Hoàng Elizabeth của Anh) cũng đã đến phúng viếng trước Kim quan của Hòa Thượng. Đây là niềm hãnh diện của chúng ta, vì lẽ trong cộng đồng của người Việt Nam tỵ nạn tại Úc Châu, cố Hòa Thượng Thích Như Huệ đã giữ một vai trò tích cực trong cương vị lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo trong suốt hơn 3 thập niên qua tại vùng đất mới nầy.

Cuộc đời của Hòa Thượng ở quê nhà cũng như tại Hải Ngoại đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau như: Thăng, trầm, vinh, nhục. Cao thượng có mà thấp kém cũng chẳng phải là không; nhất là những giai đoạn vào cuối đời, Hòa Thượng bị tai bay họa gửi, lo lắng khôn lường cho những vụ kiện cáo không đâu, tưởng chừng như không còn lối thoát. Thế nhưng những dư báo của Hòa Thượng trong đời trước vẫn còn, nên mọi chướng duyên rồi cũng nhường bước cho những sự kiện mới đã được hanh thông. Hòa Thượng đã thở phào nhẹ nhõm và có lẽ đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho bịnh trạng của Hòa Thượng càng ngày càng trầm trọng hơn và cuối cùng phải nhận câu “Nghĩa tử là nghĩa tận”. Riêng tôi thì suy nghĩ khác đi một chút trong quan điểm nầy. Tôi thấy đa phần người Việt của chúng ta, ai đó khi còn sống thường bị thấy toàn là chuyện xấu, nhưng đến khi chết thì lại được nghe toàn là những lời ca ngợi ở mọi bình diện và cũng chẳng ai dám nói sự thật bao giờ. Có lẽ người ta sợ sự thật chăng? Cho nên theo tôi nghĩ, lúc còn sống chúng ta nên chỉ thấy những chuyện tốt của nhau, lo vun bồi những điều lành để làm tăng trưởng thiện tâm nơi mỗi người, thì tuổi thọ của chúng ta có thể sẽ được dài lâu hơn. Còn việc xấu, bề nào nó cũng đã xấu rồi, tại sao chúng ta lại còn đào sâu hơn nữa để làm gì? Đó có phải là chúng ta chỉ lo củng cố cho tự ngã của mình và muốn dìm cái ngã của người khác xuống để cái ngã của chính ta tự do, tự tại chăng? Cũng có thể là như vậy, mà cũng chưa hẳn là như vậy. Bởi lẽ, không một ai trong chúng ta tránh khỏi sự thật được. Dầu cho sự thật ấy có là thế nào đi chăng nữa thì sự thật cũng sẽ là một sự thật, thì đâu cần phải chữa cháy làm gì?

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 thường dạy rằng: “Nếu trong tâm bạn chỉ chứa toàn là lòng từ bi, thì hận thù không còn nơi để tồn tại”. Đúng thật là như vậy. Nếu chúng ta chỉ nhìn những cái đẹp cái thiện của người khác, khi đang sống hay lúc đã chết, thì tâm ta hỷ lạc vô biên. Nếu không muốn thấy, hoặc vô tình hay cố ý về những lỗi lầm của kẻ khác, tâm ấy chính là tâm đại địa của những bậc quân tử. Đời nầy rất hiếm có được người như vậy, nhưng tuyệt nhiên không phải là không. Đôi khi Ngài cũng dạy rằng: “Love and Compassion are nessessities, not luxussieties. Without them, humanity can not survive”. Nghĩa là: Tình yêu và lòng từ bi là những điều cần thiết, không phải là những điều xa xỉ. Nếu không có chúng, thì nhân cách của con người không thể phát triển được”. Đúng là như vậy, giữa con người với con người hơn thua nhau là cái nhân cách sống, chứ không phải sự giàu có, danh vọng, địa vị hay sĩ diện. Chúng lại không là những giá trị vật chất để biểu dương, mà là những Chân Thiện Mỹ của con người vốn có sẵn nơi tự tâm của mỗi chúng ta.

Từ đó tôi có ý nghĩ rằng từ nay về sau, nếu chúng ta nhìn một người nào đó, hãy khoan phê phán, mà hãy trân quý họ như những gì trong phẩm “Thường Bất Khinh Bồ Tát” trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã dạy, thì tâm ta sẽ tự tại vô ngại, không có gì bị dính mắc và không có gì để não phiền, mà thay vào đó, chúng ta thấy ai cũng là Thầy của mình và mình chính là những người học trò cần phải học hỏi ở nơi những vị Thầy ấy, thì mọi việc sẽ trở nên giản đơn hơn bao giờ hết. Nếu chúng ta chỉ chuyên nhìn điểm xấu của người khác thì tâm của chúng ta cũng sẽ chứa đựng những não phiền, thì lòng từ bi ít có cơ hội để hiện hữu. Hãy mở rộng bản tâm của mỗi con người để đón nhận những niềm tin yêu cao thượng nơi những bậc trưởng thượng thì mọi người trong chúng ta sẽ được lợi lạc nhiều hơn. Quan niệm của mỗi người có thể mỗi khác, nhưng quan niệm về cách sống của tôi từ lâu tôi đã chọn cách nầy, cảm thấy lợi lạc vô cùng.

Nay nhân sự ra đi của Cố Hòa Thượng Thích Như Huệ cũng là vị Ân sư của tôi, tôi muốn nhắn gửi đến mọi người, có thể là không phải ai cũng đều đồng quan điểm với tôi, nhưng nên ít chỉ trích nhau trong lúc còn sanh tiền, mà hãy trân quý nhau trong từng những sát na hiện hữu, vì ngày mai sẽ không là ngày hôm nay và quá khứ chẳng phải là hiện tại, tất cả đều phải thay đổi, cho nên chúng ta nên nhìn về người cũng như sự vật có cái nhìn thông thoáng hơn, thì tâm ta sẽ an lạc vô cùng. Sự sống nếu có bắt đầu thì phải có sự chấm dứt và chúng ta muốn sự chấm dứt ấy như thế nào, chúng lệ thuộc vào những hành động trong hiện tại của mỗi người. Nếu trong hiện tại chúng ta luôn dùng lòng từ bi để cư xử với nhau, thì chắc rằng thế giới nầy sẽ trong sáng hơn. Điều ấy hẳn đúng như Thánh Gandhi đã nói rằng: “Nếu mỗi ngày chúng ta dùng 10 đến 15 phút để thiền định thì thế giới sẽ không có chiến tranh xảy ra”. Sở dĩ có chiến tranh vì còn hận thù, mà hận thù thì không thể tự diệt được hận thù; chỉ có lòng từ bi mới diệt được hận thù mà thôi.

Viết xong vào một sáng mùa Thu ngày 9 tháng 9 năm 2016 tại Tu Viện Viên Đức Ravensburg, miền Nam nước Đức.