Home » Tàng Kinh Các » Kinh Thắng Thiên Vương Bát-Nhã Ba-La-Mật Quyển 4

Kinh Thắng Thiên Vương Bát-Nhã Ba-La-Mật Quyển 4

Mục Tàng Kinh Các

Phẩm 6: BÌNH ÐẲNG

Lúc bấy giờ Thắng Thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Ðức Phật, cúi đầu làm lễ bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như lời Thế Tôn nói pháp tánh bình đẳng, thế nào là bình đẳng và những pháp nào gọi là bình đẳng?
Phật bảo Thắng Thiên vương:
–Này đại vương! Bình đẳng là quán các pháp không sinh, không diệt, tự tánh vắng lặng. Tất cả phiền não, giả dối, phân biệt, không sinh không diệt tự tánh vắng lặng, gọi là bình đẳng. Danh tướng, vọng tưởng không sinh, không diệt, tự tánh vắng lặng gọi là bình đẳng. Diệt trừ các điên đảo, không sinh tâm phan duyên gọi là bình đẳng. Khi tâm năng duyên đã diệt, thì vô minh hữu ái đều vắng lặng. Si ái đã diệt, nên không sinh ngã và ngã sở, gọi là bình đẳng. Ngã và ngã sở diệt, thì danh sắc vắng lặng, gọi là bình đẳng vì danh sắc diệt nên biên kiến chẳng sanh gọi là bình đẳng. Chấp đoạn, chấp thường đã diệt thì thân kiến vắng lặng, gọi là bình đẳng.
Này đại vương! Tất cả phiền não năng thủ sở thủ chướng ngại pháp lành đều nương vào thân kiến mà sinh ra. Bậc Ðại Bồ-tát diệt được thân kiến thì tất cả nghiệp tạo tác và kết sử đều đoạn dứt và vắng lặng.
Ví như cây lớn, nếu nhổ gốc rễ thì cành lá đều bị chết khô.
Cũng như người không đầu thì chết. Tất cả phiền não cũng như vậy, nếu đoạn thân kiến thì kết sử tự diệt.
Này đại vương! Nếu có người quán các pháp không có ngã, thì năng thủ và sở thủ đều vắng lặng.
Thắng Thiên vương bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Tại sao phát sinh ngã kiến thì che mất lý chân thật?
Phật bảo Thắng Thiên vương:
–Này đại vương! Ðối với thân năm ấm, vọng chấp có ngã thì liền sinh ngã kiến. Nhưng pháp chân thật tự tánh vốn bình đẳng, không có năng chấp, sở chấp, ngã kiến trái ngược nên gọi là chướng.
Này đại vương! Như vậy ngã kiến không ở trong, không ở ngoài, không ở trong và ngoài; nên không có chỗ trụ, gọi là vắng lặng, tức là bình đẳng. Xa lìa ngã kiến, thấu rõ bình đẳng, gọi là quán chân thật không; tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Tự tánh vắng lặng không sinh, không diệt, không thủ, không trước, xa lìa ngã kiến gọi là bình đẳng.
Này đại vương! Nói về ngã tức là không đi; không đến; không có phân biệt chân thật hay giả dối pháp từ nơi vọng mà có cũng gọi là hư vọng. Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật quán sát các pháp như vậy, xa lìa hư vọng nên gọi là vắng lặng, bình đẳng.
Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện thiện xảo, có thể biết như thật các phiền não bị đoạn diệt; vì thiện pháp tăng trưởng nên phiền não bị đoạn trừ, nhưng không thấy có sinh, không thấy có diệt, gọi là bình đẳng. Tu pháp Ba-la-mật xa lìa ma chướng, nhưng không thấy pháp để tu và không thấy pháp để xa lìa, gọi là bình đẳng. Bồ-tát thường ra sức trợ giúp pháp Bồ-đề, không có sinh tâm Thanh văn và Bích-chi-phật. Ðối với việc trợ giúp pháp Bồ-đề, không thấy có tướng khác của Thanh văn và Duyên giác, gọi là bình đẳng. Tâm duyên vào Nhất thiết trí, thì không dừngnghĩ, thường tu hạnh không và dùng đại Bi lực để không từ bỏ chúng sinh, nên gọi là bình đẳng.
Này đại vương! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, với đầy đủ phương tiện, liền được tâm duyên tự tại. Dùng tâm duyên vô tướng, để tu pháp giác ngộ nhưng không thấy có pháp vô tướng và giác ngộ khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Tâm duyên vô nguyện không bỏ ba cõi; nhưng không thấy vô nguyện và ba cõi khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Quán thân bất tịnh, tâm phải trụ thanh tịnh; quán hạnh vô thường, tâm trụ ở sinh tử mà không nhàm chán xa lìa; quán chúng sinh khổ, tâm trụ ở Niết-bàn; quán pháp vô ngã thì phát tâm đại Bi đối với các chúng sinh; thường vì chúng sinh nói thuốc bất tịnh không thấy bệnh tham; thường nói đại Bi không thấy sân hận; thường nói nhân duyên không thấy ngu si và nhiều bệnh tật; nói thuốc vô thường nên không thấy các bệnh và vô thường khác.
Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện như vậy; đối tất cả các pháp, tâm duyên tự tại; duyên pháp ly dục để giáo hóa Thanh văn; duyên pháp lìa sân hận là giáo hóa Bích-chi-phật; duyên pháp lìa ngu si là giáo hóa Bồ-tát; duyên tất cả sắc là nguyện được sắc thân vô sở đắc của Phật. Tâm duyên các âm thanh là nguyện được âm thanh vi diệu của Như Lai; tâm duyên các mùi hương là nguyện được giới hương thanh tịnh của Như Lai; tâm duyên các mùi vị bậc nhất là nguyện được vị ở trong tướng đại trượng phu bậc nhất của Như Lai; tâm duyên các xúc là nguyện được bàn tay mềm mại của Như Lai; tâm duyên các pháp là nguyện được tâm vắng lặng của Như Lai; tâm duyên pháp bố thí là nguyện được thành tựu thân tướng tốt đẹp; tâm duyên tịnh giới là nguyện được cõi Phật thanh tịnh; tâm duyên nhẫn nhục là nguyện được âm thanh đại Phạm của Như Lai, thân tỏa hào quang thanh tịnh; tâm duyên tinh tấn là nguyện độ chúng sinh; tâm duyên thiền định là nguyện được thành tựu các đại thần thông, tâm duyên trí tuệ là nguyện đoạn tất cả kiến hoặc phiền não; tâm duyên đại Từ, bình đẳng, không ngại là để làm cho chúng sinh đều được an lạc; tâm duyên đại Bi là nguyện hộ trì chánh pháp; tâm duyên đại Hỷ là nguyện được nói pháp ưa thích cho chúng sinh; tâm duyên đại Xả là nguyện không thấy phiền não kết sử của chúng sinh.
Này đại vương! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện không thấy hai việc, gọi là hạnh bình đẳng.
Tâm duyên bốn Nhiếp pháp là để giáo hóa chúng sinh; nương theo lỗi tật đố mà xả bỏ tư tài; nương theo lỗi phá giới, để trụ giới thanh tịnh; nương theo lỗi sân hận để trụ nhẫn nhục; nương theo lỗi lười biếng nên được Phật lực; nương theo lỗi tán loạn, nên được thiền định vắng lặng của Như Lai; nương theo lỗi trí tối tăm nên được trí tuệ vô ngại của Như Lai. Tâm duyên với Thanh văn và Bích-chi-phật là vì muốn thành tựu vô thượng Ðại thừa; tâm duyên với đường ác vì muốn cứu giúp tất cả chúng sinh; tâm duyên với chư Thiên là vì biết tất cả đều bị hư hoại; tâm duyên các chúng sinh là vì biết không chắc thật; tâm duyên nơi niệm Phật nên được thành tựu thiền định và trợ đạo; tâm duyên nơi niệm Pháp nên được thông đạt các pháp tạng bí mật; tâm duyên nơi niệm Tăng nên được quả vị không thoái chuyển; tâm duyên nơi niệm xả nên không ái trước; tâm duyên nơi niệm giới nên được giới thanh tịnh; tâm duyên nơi niệm Thiên nên thành Phật được chư Thiên khen ngợi; tâm duyên nơi tự thân nên được thân Phật; tâm duyên nơi miệng nên được kim khẩu của Phật; tâm duyên nơi ý nên được tâm bình đẳng của Như Lai; tâm duyên nơi hữu vi nên được trí Phật; tâm duyên nơi vô vi nên được vắng lặng.
Này đại vương! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không có một tâm, một hạnh nào mà không hướng đến Nhất thiết trí.
Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật duyên khắp các pháp mà không bị đắm trước, xem thấy các pháp đều đưa đến giác ngộ nên gọi là phương tiện thiện xảo.
Này đại vương! Ví như đại địa trong tam thiên đại thiên thế giới sinh ra các vật để mọi người đều dùng vậy.
Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, các cảnh giới đã duyên đều con đường lợi ích để đưa đến giác ngộ. Ví như các sắc đều nhân nơi bốn đại mà thành. Như vậy, Bồ-tát duyên các cảnh giới, không có một pháp nào mà không đưa đến giác ngộ. Vì sao? Vì Ðại Bồ-tát tu tập các hạnh, đều nhân nơi duyên bên ngoài mà được thành tựu. Như nhân nơi người keo kiệt mà Bồ-tát thành tựu được Bố thí ba-la-mật; nhân nơi người quên ân mà Bồ-tát thành tựu được Trì giới ba-la-mật; nhân nơi tánh ác, sân hận của chúng sinh mà Bồ-tát thành tựu Nhẫn nhục ba-la-mật; nhân nơi người lười biếng mà Bồ-tát thành tựu Tinh tấn ba-la-mật; nhân nơi người tán loạn mà Bồ-tát Thiền định ba-la-mật, nhân người ngu dốt mà Bồ-tát thành tựu Trí tuệ ba-la-mật.
Nếu có chúng sinh làm não hại Bồ-tát, thì nhân đấy Bồ-tát không sanh tâm sân hận.
Nếu thấy người tu hành pháp lành hướng đến giác ngộ, thì Bồ-tát cứ xem như là thân của con mình.
Nếu thấy người khen ngợi, thì Ðại Bồ-tát không sanh vui mừng và chê cũng không sân hận.
Thấy chúng sinh khổ thì Bồ-tát sinh tâm đại Bi, thấy chúng sinh vui thì sinh tâm đại Hỷ.
Nếu chúng sinh khó giáo hóa thì Bồ-tát thương tưởng, phát tâm vắng lặng, chúng sinh nhân đó mà tin và thực hành; nên Bồ-tát liền được trí tuệ và sự biết ân.
Nếu thấy ác duyên bên ngoài của chúng sinh mạnh và nhân thiện ở bên trong yếu, thì Bồ-tát phát tâm ủng hộ.
Nếu Bồ-tát thấy chúng sinh cậy nơi sức mạnh, thời dùng mọi phương tiện làm cho họ nhận sự giáo hóa.
Nếu Bồ-tát thấy trí tuệ của chúng sinh được khai ngộ, hiểu rõ nghĩa lý, thì nói pháp sâu xa cho họ.
Nếu người có trí tuệ thì Bồ-tát theo thứ lớp mà nói pháp.
Nếu có người chấp trước văn tự thì Bồ-tát nói nghĩa lý cho họ.
Bồ-tát nói pháp quán cho những người đã tu pháp chỉ và nói các Tam-muội cho những người đã tu pháp quán.
Nếu có người chấp trước trì giới thì Bồ-tát nói địa ngục, còn không chấp trước thì không nói.
Bồ-tát nói pháp tư duy và tu tập cho người chấp trước việc nghe; nói trí tuệ cho người chấp trước thiền định; nói pháp viễn ly cho người ưa nhàn vắng; nói Thánh trí cho người muốn nghe công đức của Phật; nói pháp bất tịnh cho người tham dục; nói pháp từ bi cho người sân hận; nói pháp duyên sinh cho người ngu si, nói tất cả pháp bình đẳng cho mọi người, như: nói bất tịnh, hoặc nói từ bi, hoặc nói nhân duyên, hoặc nói tịnh giới, thiền định, trí tuệ… để giáo hóa chúng sinh.
Nếu có chúng sinh nào thích hợp nhận sự giáo hóa của Phật thừa thì Bồ-tát theo thứ lớp nói pháp Ba-la-mật; chúng sinh thích hợp nhận sự giáo hóa bằng khống chế, thì Bồ-tát trước bác bỏ lời nói của họ, nhưng sau đó nói pháp cho họ.
Nếu chúng sinh thích hợp nhận sự giáo hóa bằng lời nói, thì Bồ-tát liền nên vì đó mà nói pháp nhân duyên và thí dụ làm cho họ được hiểu rõ; ai muốn được giáo hóa bằng pháp sâu xa, thì Bồ-tát liền vì đó mà nói Bát-nhã ba-la-mật và sức phương tiện; không nhân, không ngã và không nói pháp tướng người chấp thấy chúng sinh thì nói pháp không. Người có nhiều giác quán nên nói vô tướng; người ưa đắm pháp hữu vi thì nói vô nguyện. Chấp trước nơi năm ấm chúng sinh thì nói huyễn hóa. Chấp trước nơi giới chúng sinh thì nói không chỗ có. Chúng sinh chấp trước nơi nhập của chúng sinh thì nói như mộng. Chúng sinh chấp trước nơi Dục giới thì nói thiêu đốt; hoặc chấp trước nơi sắc giới thì nên nói hành khổ; hoặc chấp trước nơi Vô sắc giới thì nói hạnh vô thường. Chúng sinh khó giáo hóa thì khen ngợi thánh chủng. Chúng sinh dễ giáo hóa thì nói các thiền định và tâm vô lượng; ai thích được giáo hóa muốn sanh lên trời thì nên nói pháp an lạc. Người muốn được giáo hóa bằng pháp Thanh văn, thì nên nói Tứ đế; người muốn được giáo hóa bằng pháp Bích-chi-phật, thì nên nói pháp nhân duyên; người thọ nhận giáo hóa bằng pháp Bồ-tát thì nên nói tâm thanh tịnh và pháp đại Bi. Người tu hạnh Bồ-tát thì nên nói công đức trí tuệ; các Bồ-tát không thoái chuyển thì nên nói cõi Phật thanh tịnh; bậc Nhất sinh bổ xứ thì nên nói đạo tràng trang nghiêm; người lấy lời Phật nói mà nhận sự giáo hóa thì nên liên tục nói theo thứ lớp.
Này đại vương! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành thanh tịnh Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện nên được tự tại, nói pháp lợi ích không có sai lầm.
Khi Bồ-tát nói pháp môn tự tại này, trong chúng có ba ngàn người và trời phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, năm ngàn Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn.
Lúc bấy giờ Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Theo thường lệ, khi Phật mỉm cười thì ở giữa mặt phóng ra các luồng hào quang lớn, màu xanh, vàng, đỏ, trắng, màu tía và pha lê chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới, lên đến cõi trời Sắc cứu cánh, rồi trở lại cõi Phật nhiễu bên phải ba vòng rồi thâu vào đảnh đầu của Phật.
Lúc bấy giờ, ngài Ðại trí Xá-lợi-phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Ðức Phật cúi đầu đảnh lễ mà bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai không vì đại nhân duyên thì không hiệm tướng tốt hiếm có này. Nay Ðức Thế Tôn phóng hào quang, chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới, vì nhân duyên gì! Nguyện xin Ngài nói cho?
Lúc bấy giờ, Ðức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Này thiện nam! Thắng Thiên vương này, vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp về quá khứ, đã ở nơi chư Phật, tu hành các Ba-la-mật, vì các Bồ-tát mà giữ gìn pháp Ba-la-mật, như vậy đến đời vị lai trải qua vô lượng trăm ngàn a-tăng-kỳ kiếp để thành tựu Vô thượng Bồ-đề tư lương, sau đó mới được Vô thượng Chánh đẳng giác. Danh hiệu Phật là Công Ðức Trang Nghiêm, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nước đó tên là Nghiêm tịnh; kiếp số tên là Thanh tịnh; cõi đó giàu có nhân dân an lạc, trong nước hoàn toàn là chúng Bồ-tát. Nước đó đều trang hoàng oai nghiêm bằng bảy thứ báu. Ðó là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, trân châu. Bảy thứ báu trộn lại thành đất, bằng phẳng như bàn tay, dùng thứ cỏ mềm và hương hoa để trang sức. Cõi đó không có các thứ đồi núi, gò nỗng, gai gốc, dùng rất nhiều cờ phướn quý báu để trang hoàng, Thành đó tên là Nan phục, dùng lưới bảy báu che ở trên thành và treo đầy những chuông vàng.
Ngày đêm sáu thời, chư Thiên giữa hư không tự trổi lên các thứ nhạc trời, rải các thứ hương và hoa trời. Nhân dân cõi đó hoan hỷ thọ nhận các dục lạc hơn ở cõi trời Tha hóa. Người, trời tự do qua lại, không có ba đường ác, chúng sinh cõi đó chỉ cầu trí Phật, không có tên Nhị thừa.
Phật Thế Tôn vì các Ðại Bồ-tát có đức hạnh cao cả mà nói pháp thanh tịnh, vô lương, vô biên quyến thuộc của Bồ-tát không có người phá giới, tà mạn, ác kiến, không có câm ngọng, đui điếc, mù lòa, lõa hình và các căn không đầy đủ. Ðều đầy hai mươi tám tướng tốt đẹp để trang nghiêm thân. Ðức Phật sống lâu tám tiểu kiếp, chúng trời người không có chết yểu.
Này thiện nam! Ðức Phật ở cõi nước đó, có vô lượng các công đức như vậy. Khi muốn nói pháp, phóng hào quang chiếu khắp cõi nước, các Bồ-tát gặp được ánh sáng đó, liền biết Thế Tôn nói pháp, chúng ta đến nghe cho đúng lúc.
Lúc bấy giờ, chư Thiên trải tòa Sư tử, cao một trăm do-tuần, cho Ðức Thế Tôn, cúng dường vô lượng thứ báu để trang nghiêm tòa đó.
Ðức Thế Tôn liền ngồi trên tòa nói pháp cho chúng sinh. Các Bồ-tát thông minh, lanh lợi, một khi nghe pháp liền ngộ vô ngã và ngã sở. Ở đây thức ăn, uống và đồ cần dùng, chỉ cần nhớ nghĩ thì liền được.
Khi nói pháp môn thọ ký cho Thắng Thiên vương, trong chúng có năm vạn trời, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác và nguyện đời vị lai sẽ sinh nơi cõi nước đó.
Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương nghe mình được Thế Tôn thọ ký, tâm vui mừng chưa từng có, liền vọt lên hư không cao đến bảy cây Ða-la.
Lúc bấy giờ, tam thiên đại thiên thế giới, đều chấn động sáu cách, các thứ nhạc trời không đánh mà tự nhiên trổi lên, rải các thứ hoa trời để cúng dường Phật và Thắng Thiên vương.
Lúc đó, Thắng Thiên vương từ giữa hư không hạ xuống, cúi đầu lễ Phật rồi ngồi qua một bên.

Phẩm 7: HIỆN TƯỚNG

Lúc bấy giờ, Ðại trí Xá-lợi-phất nói với Thắng Thiên vương:
–Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thông đạt pháp tánh, thì phải ngồi đạo tràng để chuyển pháp luân ngay, vì nhân duyên gì mà phải tu khổ hạnh và hàng phục ác ma trước?
Thắng Thiên vương trả lời Xá-lợi-phất:
–Này thiện nam! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thật ra không có tu khổ hạnh, vì hàng phục ngoại đạo nên thị hiện khổ hạnh mà sự thật thì Thiên ma không thể phá hoại. Vì là chủ của cõi Dục, nên thị hiện để hàng phục, giáo hóa chúng sinh.
Này Xá-lợi-phất! Ngoại đạo tự cho khổ hạnh là đệ nhất, cho nên Bồ-tát thị hiện khổ hạnh để vượt hẳn ngoại đạo.
Này Xá-lợi-phất! Nếu có chúng sinh thấy Bồ-tát chỉ đứng co một chân, hoặc thấy Bồ-tát đứng bằng hai tay, hoặc thấy Bồ-tát đứng nhìn mặt trời, hoặc thấy Bồ-tát dùng năm lửa để đốt thân, hoặc thấy Bồ-tát đứng chổng đầu xuống đất, hoặc thấy Bồ-tát nằm trên gai nhọn, hoặc nằm trên phân trâu, hoặc ngồi trên đá dăm, hoặc nằm trên đất, hoặc nằm trên ván, hoặc nằm trên chông, hoặc nằm trên bụi đất, hoặc mặc áo mỏng, mặc áo vải gai, mặc áo vỏ cây, hoặc lõa hình, hoặc mặc áo cỏ tranh, hoặc mắt nhìn mặt trời và xoay theo mặt trời, hoặc ăn gạo đắng, hoặc ăn lúa tẻ, ăn gốc cỏ và thứ lá cây khác, ăn quả, ăn hoa, ăn củ mài, ăn khoai lang, ăn cây gai, ăn gạo hoặc uống nước để qua ngày, hoặc ăn một cọng rau để qua ngày, một giọt sữa, một giọt mật, hoặc không ăn hoặc hiện ngủ say.
Này Xá-lợi-phất! Ðại Bồ-tát thị hiện tất cả khổ hạnh như vậy, trong suốt sáu năm không thiếu một việc. Bồ-tát thật không có khổ hạnh như vậy, nhưng vì chúng sinh thấy có; bởi Bồ-tát thị hiện khổ hạnh là để độ thoát cho chúng sinh, do có sáu mươi na-do-tha người an trú nơi ba thừa nên Bồ-tát thị hiện khổ hạnh.
Này Xá-lợi-phất! Lại có trời người, đời trước trồng căn lành sâu, ưa pháp Ðại thừa thì thấy Bồ-tát ngồi đài bảy báu, thân tâm không động, nét mặt vui cười, nhập định Tam-muội, như vậy trải qua sáu năm mới xuất định.
Này Xá-lợi-phất! Lại có chúng sinh ưa pháp Ðại thừa sâu xa, muốn lắng nghe thì thấy Bồ-tát ngồi yên mà nói pháp.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện đại Bi hóa độ tất cả chúng sinh, có thể hàng phục Thiên ma và các ngoại đạo.
Bậc Ðại Bồ-tát sau sáu năm liền xuất định. Ngài thuận theo pháp thế gian đi đến sông Ni-liên-thiền, tắm rửa xong đứng bên bờ sông thấy có một cô mục đồng, chọn lấy một con trong một trăm con bò sữa; sau đó lấy sữa con này nấu cháo dâng cúng Bồ-tát. Lại có sáu ức Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, đều đem thức ăn uống đến dâng cúng và nói:
–Ðại sĩ, xin nhận sự cúng dường của chúng con! Chánh sĩ, xin hãy nhận sự cúng dường của chúng con!
Bồ-tát đều nhận tất cả, nhưng cô gái chăn cừu và Thiên, Long, Dạ-xoa… đều không thấy nhau, mỗi một vị trời đều thấy Bồ-tát riêng nhận sự cúng dường đó.
Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát thị hiện hận sự cúng dường để cho chúng sinh nhân nơi đó thấy mà ngộ đạo. Nhưng Bồ-tát này thật sự không có tắm rửa và nhận sự cúng dường.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện thị hiện đi đến đạo tràng. Khi ấy, có trời Ðịa-cư tên là Diệu Ðịa cùng các Thiên thần quét dọn vùng đất này và rải các thứ hoa báu, rồi dùng nhiều thứ nước hương để rưới chỗ ấy, cho đến khắp tam thiên đại thiên thế giới và dưới núi Tu-di, trời Tứ Thiên vương và chúng trời làm mưa các hoa trời, trời Tam thập tam và trời Dạ-ma ở giữa hư không khen ngợi và trổi các thứ nhạc trời, vua San-đâu-suất-đà ở cõi trời Ðâu-suất-đà dùng lưới bằng bảy báu che khắp thế giới, bốn góc đều treo những chuông bằng vàng đều mưa hoa cúng dường Bồ-tát và vua Thiện hóa ở cõi trời Lạc hóa, dùng lưới bằng vàng ròng che thế giới, trổi các thứ nhạc và mưa hoa cúng dường Bồ-tát các Thiên tử cõi trời Tha hóa tự tại, cùng các Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… mỗi mỗi sắp đặt cúng dường mọi thứ. Trời Tự tại cùng với vua trời Ðại phạm, chủ thế giới Ta-bà, thấy Bồ-tát đi đến đạo tràng, liền bảo tất cả Phạm thiên:
–Này thiện nam! Các ông phải biết, bậc Ðại Bồ-tát này dùng thân lớn vững chắc để tự trang nghiêm, không trái với lời nguyện, tâm không biếng nhác, tất cả hạnh Bồ-tát đều đầy đủ và thông đạt.
Ngài giáo hóa vô lượng chúng sinh, các địa vị của Bồ-tát đều được tự tại; đối với các chúng sinh, tâm luôn thanh tịnh, khéo biết căn tánh, thông đạt Mật tạng sâu xa của Như Lai, vượt qua các việc làm của ma, tất cảc căn lành không theo ngoại duyên, ủng hộ vô lượng chư Phật, có thể vì chúng sinh mở cửa giải thoát. Ngài là Bậc Ðại Sư dẫn đường, xô dẹp các thứ ma; Ngài là người mạnh mẽ số một của đại thiên thế giới. Ngài là đại y vương khéo cho thuốc pháp để giải thoát cho tất cả và nhận ngôi vị Pháp vương, phóng ánh sáng của trí tuệ, không nhiễm tám pháp của thế gian, như hoa sen lớn. Ngài thông đạt tất cả Ðà-la-ni sâu xa như biển, an trụ bất động như núi Tu-di, trí tuệ thanh tịnh không có cấu uế như ngọc ma-ni, đối với tất cả pháp được tự tại, phạm hạnh thanh tịnh.
Này thiện nam! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, đến đạo tràng; ngồi cội Bồ-đề để hàng phục ác ma, thành tựu mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng, chuyển đại pháp luân, phát ra tiếng rống sư tử lấy pháp bố thí làm cho chúng sinh đều được đầy đủ. Vì muốn chúng sinh được Pháp nhãn thanh tịnh, nên dùng chánh pháp vô thượng hàng phục ngoại đạo. Muốn thành tựu bản nguyện nên thị hiện chư Phật, đối với tất cả pháp do vậy đều được tự tại.
Này thiện nam! Các ông có thể đi đến cúng dường Bồ-tát.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện thị hiện, để đến đạo tràng; dưới chân liền hiện tướng Thiên bức luân, ánh sáng vi diệu chiếu khắp tất cả địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu gặp được ánh sáng này thì xa lìa được khổ não và được an vui.
Khi ánh sáng này chiếu vào Long cung, có vua rồng Ca-lê-ca gặp ánh sáng này liền bảo với chúng rồng:
–Ánh sàng màu vàng này, chiếu đến Long cung làm cho thân tâm các ông được an lạc. Ta ở đời quá khứ, từng thấy tướng này là liền biết có Phật xuất hiện. Nay ánh sáng này giống như xưa không khác, ta nên biết chắc chắn là có Phật xuất hiện ở đời. Các ông có thể dùng các thứ hương xoa, hương bột, hương mùi vị; vàng bạc, trân châu, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, bạch ngọc, cờ phướn lọng báu và trổi các thứ nhạc đi đến trong cung Bồ-tát để cúng dường các vật tốt đẹp ấy.
Khi ấy Long vương Ca-lê-ca cùng với quyến thuộc, nổi lên vừng mây lớn, làm mưa thơm rưới xuống chỗ Bồ-tát và trổi các thứ nhạc để biểu lộ cúng dường, rồi đi nhiễu bên phải Bồ-tát mà khen rằng:
–Ánh sáng màu vàng làm cho mọi người vui sướng hơn hết, nhất định không còn nghi ngờ là Phật xuất hiện. Sau đó nhiều thứ báu trang hoàng oai nghiêm cho cả mặt đất: những cây sống trên mặt đất đều biến thành vật báu; sông ngòi đều yên lặng không có sóng gió; suy luận theo điềm lành này thì chắc chắn Phật xuất hiện, làm cho ánh sáng mặt trời, mặt trăng và cả trời Ðế Thích, trời Phạm thiên bị che khuất, các đường ác đều thanh tịnh nên chắc chắn Phật xuất hiện.
Ví như có người lúc nhỏ lạc mất cha mẹ, đến khi trưởng thành bỗng nhiên gặp lại được cha mẹ thì lòng rất vui mừng. Tất cả thế gian gặp Phật ra đời cũng như vậy. Các ông đã từng cúng dường chư Phật ở đời quá khứ, nay gặp bậc Pháp vương là sư tử trong loài người, thì ta được sinh làm người trong lúc này không uổng vậy.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, lấy cỏ trải tòa nơi cội Bồ-đề, rồi nhiễu bên phải bảy vòng và ngồi đoan nghiêm chánh niệm. Các chúng sinh thấp kém nên thấy tướng đó như vậy.
Này Xá-lợi-phất! Lại có các Ðại Bồ-tát đức hạnh cao cả; thấy tám vạn bốn ngàn Thiên tử, trải tám vạn bốn ngàn tòa Sư tử lớn làm bằng nhiều thứ báu và dùng lưới bằng bảy thứ báu che khắp trên tòa, bốn góc và ở mọi nơi đều treo chuông vàng, cờ phướn, lọng báu, vải lụa năm màu treo la liệt.
Lúc bấy giờ, Bồ-tát ngồi khắp cả tám vạn bốn ngàn tòa này, nhưng các Thiên tử không thấy nhau, cho là Bồ-tát chỉ ngồi riêng tòa của mình mà thành Vô thượng Chánh đẳng giác. Do nhân duyên này, nên các Thiên tử sinh tâm hoan hỷ, thấy được việc chưa từng có nên đều chứng quả vị không thoái chuyển.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, từ nơi tướng lông trắng ở giữa chân mày, phóng ra hào quang chiếu khắp các cung ma. Tất cả các cung ma trong tam thiên đại thiên thế giới đều bị mất ánh sáng.
Khi ấy, các chúng ma đều suy nghĩ thế này: “Do nhân duyên gì mà các cung của chúng ta ánh sáng bị mất. Há chẳng phải Bồ-tát đã ngồi ở đạo tràng chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng giác ư?” Chúng ma cùng lúc đó liền quán sát, xem thấy Bồ-tát đang ngồi đoan nghiêm nơi đạo tràng dưới cội Bồ-đề.
Lúc đó, các ác ma ở cung điện của mình tập hợp quân ma lại, hiện ra vọ lượng ngàn ức thứ màu sắc, các loại hình, các tướng mạo, các đầu mặt cầm các thứ đao trượng, các loại cờ phướng và nhiều thứ âm thanh. Nếu có ai nghe âm thanh đó thì lỗ tai, mũi, miệng đều chảy máu. Lúc bấy giờ, Bồ-tát dùng sức đại Bi, làm chúng ma phát ra âm thanh không được.
Này Xá-lợi-phất! Ðó là Bồ-tát dùng sức phương tiện đại Bi, thực hành Bát-nhã ba-la-mật.
Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, trong vô lượng ức kiếp thực hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Thiền định, Tinh tấn, Trí tuệ, Từ, Bi, Hỷ, Xả, bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Chánh đạo, Chỉ quán, tám Minh, bốn Giải thoát. Bồ-tát lại dùng cánh tay màu vàng tự xoa từ đảnh đầu cho đến khắp thân và nói như thế này:
–Chúng sinh bị khổ não nên ta muốn cứu độ họ mà phát tâm đại Bi này.
Lúc bấy giờ, ma vương và các quyến thuộc nghe Bồ-tát nói vậy liền ngã nhào xuống.
Ðại Bồ-tát dùng sức từ bi làm cho các chúng ma ở trong hư không nghe có tiếng nói: “Các ông có thể dùng thần sức Thiên ma mà quy y, trì giới, bố thí vô úy để cứu độ tất cả chúng sinh.”
Thiên ma và quyến thuộc nghe tiếng nói này xong, đều nằm rạp xuống đất, cùng nói:
–Cúi mong Ðại sĩ, Chánh sĩ cứu giúp mạng con!
Này Xá-lợi-phất! Lúc bấy giờ, Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, phóng hào quang sáng lớn. Nếu có ai gặp được ánh sáng này đều xa lìa sợ sệt. Ma và các quyến thuộc, thấy thần lực đó, vừa vui vẻ vừa sợ sệt, hai việc hòa lẫn với nhau.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, hoặc có chúng sinh thấy có hàng ma; cũng lại có người không thấy việc này. Hoặc có chúng sinh chỉ thấy có Bồ-tát trải cỏ làm tòa ngồi; hoặc thấy Bồ-tát ngồi ở nơi đài báu Sư tử; hoặc thấy Bồ-tát ngồi ngay trên đất; hoặc thấy giữa hư không tự nhiên có tòa Sư tử, Bồ-tát ngồi trên tòa đó; hoặc có chúng sinh thấy cây A-thuyết-tha là cây Bồ-đề; hoặc thấy cây hương biến, hoặc thấy các thứ báu hợp thành làm cây Bồ-đề; hoặc có chúng sinh thấy cây Bồ-đề cao gấp bảy lần cây Ða-la; hoặc có chúng sinh thấy cây Bồ-đề cao tám vạn bốn ngàn do-tuần; hoặc thấy tòa Sư tử cao bốn vạn ngàn do-tuần; hoặc có chúng sinh ở xa trông thấy Bồ-tát dạo chơi trong hư không, hoặc thấy Bồ-tát ngồi cội Bồ-đề.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, thị hiện tất cả sự thần biến như thế để hóa độ chúng sinh.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, thị hiện ngồi nơi đạo tràng, vô lượng, vô biên Ðại Bồ-tát ở mười phương hằng hà sa thế giới đều đi đến nhóm họp ở giữa hư không, phát ra lời nói mừng vui để an ủi Bồ-tát:
–Lành thay, nhanh chóng, dũng mãnh, tinh tấn, đại kiết tường, chớ nên sinh sợ sệt, tâm như kim cang, dùng thần thông để làm lợi ích chúng sinh, chỉ một niệm trong giây lát liền được Nhất thiết trí.
Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát khi ngồi đạo tràng, chúng ma đến quấy nhiễu nhưng không sinh tâm hận; chỉ một sát-na, tâm cùng với Bát-nhã ba-la-mật tương ưng thì chỗ thấy hiểu biết thảy đều thông đạt.
Này Xá-lợi-phất! Lúc bấy giờ, chư Phật Như Lai trong mười phương hằng hà sa thế giới cùng đồng thanh khen rằng:
–Lành thay Ðại sĩ! Ông đã thông đạt trí tự nhiên, trí vô ngại, trí bình đẳng, trí vô sư, đại Bi trang nghiêm.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, có thể thị hiện nhiều cách như vậy; hoặc có chúng thấy Bồ-tát mới vừa thành đạo; hoặc thấy Bồ-tát thành đạo từ lâu; hoặc thấy Tứ Thiên vương của một thế giới đến hiến dâng bình bát; hoặc thấy Tứ Thiên vương ở hằng hà sa mười phương thế giới đến hiến dâng bình bát.
Này Xá-lợi-phất! Lúc bấy giờ, Bồ-tát muốn độ chúng sinh, nên liền nhận tất cả bình bát đó, đem chồng lại trong tay làm thành một cái. Nhưng các Thiên vương đều không thấy nhau, cho là Thế Tôn đã dùng riêng bát của mình.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, thị hiện những việc như vậy.
Khi nói pháp môn này, trong chúng có ba vạn Ðại Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn; có ba vạn sáu ngàn Bồ-tát đều là bậc không thoái chyển được Vô thượng Chánh đẳng giác; có tám vạn trời, người xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh; có vô lượng, vô biên chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác.
Này Xá-lợi-phất! Lại có sáu vạn Thiên tử đi đến trước, yên lặng cúng dường là do sức nguyện lực đời quá khứ, nếu Bồ-tát thành đạo xin thọ nhận chúng con cúng dường trước.
Lúc bấy giờ, Ðại Bồ-tát dùng sức phương tiện của Bát-nhã ba-la-mật sẽ thị hiện ước muốn chuyển pháp luân.
Khi đó Phạm vương Thi-khí là chủ của thế giới Ta-bà, cùng với sáu mươi tám vạn Phạm thiên đi đến chỗ Thế Tôn cúi đầu làm lễ, rồi nhiễu bên phải bảy vòng mà nói rằng:
–Cúi xin Ðức Ðại Bi chuyển pháp luân vô thượng! Cúi xin Ðức Ðại Bi chuyển pháp luân vô thượng!
Lúc bấy giờ, liền hiện tòa Sư tử cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, trang trí oai nghiêm nhiều thứ báu kiên cố và an ổn. Mười phương vô lượng Thích Ðề-hoàn Nhân cùng đều vì Như Lai mà trải tòa Sư tử giống như vậy.
Bấy giờ, Bồ-tát dùng sức thần thông ngồi trên tòa Sư tử. Các chư Thiên đều thấy Bồ-tát ngồi trên tòa Sư tử của mình mà chuyển pháp luân.
Ðại Bồ-tát đã ngồi trên tòa này, thì vô lượng, vô biên mười phương thế giới đều chấn động và phóng ánh sáng lớn nhập vào vô biên cảnh giới Tam-muội. Tất cả chúng sinh ở hằng hà sa mười phương thế giới bị khổ nạn trong ba đường ác đều xa lìa ba độc, liền được an lạc, tất cả đều ở chung với nhau như mẹ con không có tâm ác.
Lúc bấy giờ, tam thiên đại thiên thế giới này, trong đó có Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma hầu-la già, Nhân phi nhân… đầy kín mít không còn có kẻ hở như lỗ chân lông; nếu có chúng sinh thích pháp khổ mà nhận sự giáo hóa thì nghe Phật nói khổ.
Chúng sinh thích vô ngã, không, vắng lặng, xa lìa, vô thường cũng đều như vậy.
Chúng sinh thích pháp như huyễn mà nhận sự giáo hóa thì nghe nói như huyễn; chúng sinh thích lấy pháp như mộng, như ánh trăng trong nước như ảnh, như tiếng vang đều cũng như vậy.
Có chúng sinh thích giáo hóa bằng pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện thì liền nghe Phật nói pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện; hoặc nghe Như Lai nói tất cả pháp từ nhân duyên sinh; hoặc nghe nói các ấm, giới, nhập; hoặc nghe thuyết về Khổ, Tập, Diệt, Ðạo; hoặc nghe nói bốn Niệm xứ; hoặc nghe nói bốn Chánh cần; hoặc nghe nói bốn Thần túc; hoặc nghe nói năm Căn; năm Lực; bảy Giác chi; hoặc nghe nói tám Chánh đạo; hoặc nghe nói tu Chỉ; hoặc nghe nói tu Quán; hoặc nghe nói pháp của Bích-chi-phật; hoặc nghe nói pháp Ðại thừa.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật,dùng sức phương tiện để thị hiện đủ mọi cách mà chuyển pháp luân, làm cho vô lượng chúng sinh tùy theo căn tánh được hoan hỷ lợi ích.
Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất thưa với Thắng Thiên vương:
–Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện gì mà vào cảnh giới sâu xa khó biết, khó nghĩ, khó lường?
Thắng Thiên vương trả lời Xá-lợi-phất:
–Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, với nhiều việc có công đức thù thắng. Ta nay nói một phần của trăm ngàn vạn ức, cho đến toán số thí dụ cũng không thể hết. Chỉ có Ðức Như Lai mới có thể nói hết. Ta nay chỉ nói một phần ít, là đều nhờ vào sức oai thần của Như Lai, vì sao? Vì Ðại Bồ-tát ở địa vị Nhất sanh bổ xứ, còn chưa biết hết được cảnh giới chư Phật huống chi là Bồ-tát.
Này Xá-lợi-phất! Cảnh giới của chư Phật vắng lặng, không thể nói, chỉ có trí vô phân biệt mới có thể hiểu rõ.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát muốn vào cảnh giới của chư Phật nên học Bát-nhã ba-la-mật và các Tam-muội như: Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội, Như huyễn Tam-muội, Kim cang dụ Tam-muội, Kim cang Tam-muội, Bất động ý Tam-muội, Biến thông đạt Tam-muội, Bất duyên cảnh giới Tam-muội, Sư tử tự tại Tam-muội, Tam-muội vương Tam-muội, Công đức trang nghiêm Tam-muội, Tịch tịnh Uý Tam-muội, Siêu xuất Tam-muội, Vô trước Tam-muội, Ý trang nghiêm vương Tam-muội, Vô đẳng đẳng Tam-muội, Ðẳng giác Tam-muội, Chánh giác Tam-muội, Duyệt ý Tam-muội, Hoan hỷ Tam-muội, Thanh tịnh Tam-muội, Hỏa diệm Tam-muội, Quang minh Tam-muội, Nan thắng Tam-muội, Thường hiện tiền Tam-muội, Bất tương cận Tam-muội, Vô sinh Tam-muội, Thông đạt Tam-muội, Tối thắng Tam-muội, Quá ma giới Tam-muội, Nhất thiết trí ý Tam-muội, Tràng tướng Tam-muội, Ðại bi Tam-muội, Hoan hỷ Tam-muội, Ái niệm Tam-muội, Bất kiến pháp Tam-muội.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, thông đạt vô lượng, vô biên trăm ngàn ức, hằng hà sa các Tam-muội nhiều như vậy mới có thể vào được cảnh giới của chư Phật, tâm được an ổn mà không sợ sệt. Như Sư tử vương không sợ cầm thú. Vì sao? Vì Ðại Bồ-tát đã tu các Tam-muội nhiều như vậy rồi, có đi khắp các chỗ cũng đều không sợ sệt, không thấy một oán thù có ở trước. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, tâm không có chỗ duyên và không có chỗ trụ. Ví như có người sinh vào cõi Vô sắc, trong bốn vạn tám ngàn kiếp chỉ là một thức, không có chỗ trụ, cũng không có chỗ duyên. Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy; tâm không chỗ trụ cũng không chỗ duyên. Vì sao? Vì tâm không hành và không có chỗ hành; tâm không tưởng và không có chỗ tưởng; tâm không duyên và không có chỗ duyên; tâm không chấp trước và không có chỗ chấp trước; tâm không loạn và không có chỗ loạn; tâm không cao, thấp và không tùy thuận, không trái nghịch, không vui, không lo, không phân biệt và lìa phân biệt; lìa chỉ quán, tâm không theo trí; tâm không tự trụ cũng không trụ nơi khác; không nương vào nhãn mà trụ và cũng không nương vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý mà trụ; không nương vào sắc mà trụ, và cũng không nương vào thanh, hương, vị, xúc, pháp mà trụ; tâm không trụ trong và cũng không trụ ngoài; tâm không duyên pháp, không duyên trí; không trụ quá khứ, vị lai, hiện tại.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, không giữ lấy một pháp nào; đối với tất cả pháp thấy, biết không ngại; tâm hạnh thanh tịnh, thì thấy biết được tất cả pháp đều không cấu nhiễm, không ôm giữ tướng thấy, thấy mà không phân biệt thì lìa được các hý luận.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thì không cùng với Nhục nhãn tương ưng; không cùng với Thiên nhãn tương ưng; cũng không cùng với Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn tương ưng; không cùng với Thiên nhĩ tương ưng; không cùng với Tha tâm trí tương ưng; không cùng với Túc mạng trí tương ưng; không cùng với Thần thông trí tương ưng; không cùng với Lậu tận trí tương ưng.
Này Xá-lợi-phất! Bát-nhã ba-la-mật này cũng không cùng với tất cả pháp tương ưng; nhưng không phải là có tương ưng.
Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, đối với tất cả phát đạt được trí bình đẳng; có thể quán sát tất cả tâm hạnh của chúng sinh và tất cả nhiễm tịnh đều biết như thật. Ðối với mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng và Nhất thiết trí của Phật đều không mất niệm.
Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng tâm không có công dụng để thông đạt tất cả pháp, không có tâm ý thức. Thường ở trong Tam-muội vắng lặng mà không bỏ Tam-muội là để giáo hóa chúng sinh, làm các Phật sự không cho dừng nghỉ; đối với pháp của chư Phật đạt được trí vô ngại, tâm không nhiễm trước.
Này Xá-lợi-phất! Ví như Ðức Hóa Phật lại hóa ra Phật, Ðức Phật được hóa đó không có tâm ý thức, không có thân và nghiệp của thân, không có khẩu và khẩu nghiệp. Không có tâm và nghiệp của tâm, mà có thể làm tất cả các Phật sự để đem ích cho chúng sinh. Vì sao? Vì đó là sức thần của Phật.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát dựa vào Bát-nhã ba-la-mật cũng có thể hóa được như vậy; không có thân và nghiệp của thân; không có khẩu và khẩu nghiệp. Không có ý và ý nghiệp, dùng tâm không có công dụng thường làm Phật sự lợi ích chúng sinh.
Vì Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thông đạt tất cả pháp và cũng như tướng huyễn, tâm không phân biệt và có chúng sinh thường nghe nói pháp.
Này Xá-lợi-phất! Trí tuệ của Ðại Bồ-tát như vậy, không trụ nơi hữu vi, không trụ nơi vô vi, không trụ nơi các ấm, giới, nhập, không trụ trong và ngoài, không trụ nơi pháp thiện và ác, không trụ nơi thế gian và xuất thế gian, không trụ nơi nhiễm và tịnh, không trụ hữu lậu, vô lậu, không trụ quá khứ, hiện tại, vị lai, không trụ số duyên diệt, không trụ nơi chẳng phải số duyên diệt.
Này Xá-lợi-phất! Ðó là bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm không có chỗ trụ mà có thể thông đạt tất cả các pháp. Dùng trí vô ngại và sức không công dụng để nói pháp cho chúng sinh, thường ở trong vắng lặng mà việc giáo hóa chúng sinh không có dừng nghỉ.
Này Xá-lợi-phất! Những nguyện lực đời trước của Ðại Bồ-tát rất mạnh, lấy tâm không công dụng vì người mà nói pháp.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, nên không sợ sệt. Vì sao? Vì có thần cầm chày Kim cang thường hộ vệ, những lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều không rời bỏ.
Này Xá-lợi-phất! Bậc Ðại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, tâm không kinh, sợ; không nghi ngờ, hối hận, biết đó là người sẽ được thọ ký. Vì sao? Vì tin nhận Bát-nhã ba-la-mật là được gần cảnh giới chư Phật. Dùng nhất tâm này có thể thông đạt tất cả pháp của Phật; đã thông đạt pháp Phật rồi, thì làm lợi ích cho chúng sinh, nhưng không thấy chúng sinh và pháp của Phật khác nhau. Vì sao? Vì lý không có hai vậy.